Thứ Ba, 31 tháng 1, 2012

Thông điệp kỳ bí của công chúa Nhật Bản Kaoru Nakamaru

Đó là bài phát biểu của công chúa Nhật Bản Kaoru Nakamaru, trong Hội nghị Pythagoras Toàn cầu 2012 vào hôm 02/01/2012 vừa qua. Bà đã làm cả thế giới phải chấn động và suy ngẫm.
Sau đây là nội dung bài diễn thuyết của bà:

Công chúa Kaoru Nakamaru, cháu gái của Nhật hoàng Meiji
Tôi là Kaoru Nakamaru, công chúa Nhật Bản.
Vào năm 1976, tôi đã trải qua một trải nghiệm tâm linh kỳ diệu. Kể từ lúc đó, con mắt thứ 3 của tôi đã khai mở.
Vậy là… Tôi đã có thể giao tiếp với các vật thể bay lạ không xác định, và cả những chủng người sống trong lòng đất. Có tồn tại nền văn minh rất phát triển ở đó. Đặc biệt là lãnh đạo của chủng người “Lybraryan” sống dưới lòng đất. Và,… tôi cũng giao tiếp với họ.
Và từ tất cả những thông tin này, tôi tin chắc, rằng vào 3 ngày kể từ ngày 22/12/2012, Trái đất sẽ đi vào không gian chiều thứ 5. Có một nơi gọi là “Nuru”. Khi chúng ta vượt xuyên qua nơi đó, trong 3 ngày 3 đêm, chúng ta sẽ không thể sử dụng điện năng. Cả ngày lẫn đêm, sẽ hoàn toàn là bóng tối. Không mặt trời, không một vì sao, không chút ánh sáng nào. Chúng ta hoàn toàn sống trong bóng tối, suốt 3 ngày.
Không có phương tiện thông tin đại chúng nào thông báo thông tin này cho nhân dân trên thế giới. Những người giấu mặt đằng sau các chính phủ thì biết. Chỉ có họ là biết, và họ nghĩ rằng họ có thể an toàn.
Họ cố gắng rời khỏi hành tinh này hoặc xây dựng những thành phố ngầm trong lòng đất. Bên dưới Atlanta, Na Uy, Hà Lan, Thụy Sỹ, Úc… Khoảng 10.000 người uy quyền sẽ có thể được cứu sống nhờ trú ẩn ở đó.
Nhưng dù sao đi nữa, tôi không nghĩ là họ sẽ an toàn. Chúng ta phải làm thanh khiết tinh thần của mình, theo cả phương diện vật chất lẫn tâm linh.
Tôi sẽ nói cho các bạn biết phải làm như thế nào. Điều đó rất quan trọng.

Đấng Toàn Năng, Đấng Tạo Hóa, hay Thượng Đế chính là ánh sáng, lòng thương và năng lượng. Một phần năng lượng lòng thương đó chúng ta đều có ở trong tâm hồn mình. Chúng ta có thể lừa dối người khác, nhưng không thể tự dối mình.
Tôi sẽ gọi đó là ý thức lương tâm.
Mỗi con người đều có phần tuyệt đẹp ấy của Tạo Hóa trong tâm hồn mình. Phần đó sẽ tái sinh. Đó là sự sống vĩnh hằng mà chúng ta có ở bên trong.
Vậy là, để làm thanh khiết linh hồn mình, cứ tầm khoảng 5 năm hay đại loại thế, kể từ khi sinh ra, chúng ta có thể nhìn lại ý thức [lương tâm] ấy, xem chúng ta đã cư xử ra sao, suy nghĩ ra sao, nói năng như thế nào. Và tất cả những điều này có thể được làm trong sạch bằng cách tự kiểm lại đời mình cứ mỗi 5 năm một lần, mãi cho đến thời điểm hiện tại. Bằng cách đó, mỗi lần chúng ta tìm thấy việc nào đó, chúng ta đã làm điều gì đó có hại cho người khác, thì chúng ta có thể làm rõ nó và rồi thanh tẩy nó. Mỗi khi tìm thấy, tâm hồn chúng ta sẽ rộng mở ra.
Chúng ta có thể bày tỏ điều đó một cách sâu sắc, và mỗi lần chúng ta trải nghiệm điều đó, thì tất cả bóng đêm sẽ thoát ra khỏi tâm hồn ta, thay vào đó là ánh kim quang tràn vào.
Như thế, chúng ta có thể nhìn thấy được càng ngày càng tốt hơn. Cho đến ngày 22/12/2012, thì chúng ta vẫn còn một ít thời gian.
Về mặt vật lý, chúng ta có thể làm thanh khiết thân thể mình. Đầu tiên chúng ta không bao giờ nên uống nước quả đóng lon hay bia lon. Nhôm vô cùng độc hại với thân thể chúng ta, mà chúng ta lại chẳng biết. Chúng ta toàn dùng những thứ đồ ăn thức uống độc hại ấy. Vậy [đối với] mỗi thân xác này của chúng ta, chúng ta có thể chăm sóc bản thân mình đại loại như thế. Cần tập luyện, và mỗi ngày chúng ta có thể nhìn lại tinh thần mình.
Về cơ bản, loài người chúng ta là ánh sáng và tình thương, bởi vì đó là một phần của Đấng Tạo Hóa ban cho chúng ta, trong tâm hồn, và rằng chúng ta hiện thân ở đây nhờ tDhân xác thịt trên Trái đất, nhưng còn tinh thần thì đi, đi mãi, vẫn tiếp tục sống.
Trên Trái đất này, tôi có thể nhớ được cuộc sống của mình, nhiều ngàn năm trước ở trên hành tinh này. Và ngoài ra tôi còn từng sống ở nhiều vùng đất khác nhau trên hành tinh này. Tất cả những ký ức đó trở lại với tôi, và tôi thậm chí còn có thể nói thứ ngôn ngữ mà tôi chưa từng học bao giờ [trong kiếp này].
Nghĩa là, thực sự, tôi đã trải nghiệm rằng thuyết luân hồi là sự thật.
Vâng,… bất cứ ai lắng nghe hội thảo này đi nữa, cứ nghĩ như thể là loài người đang an toàn.
Chúng ta đã bị chia rẽ sâu sắc từ sau năm 1913, một bên là những người tin vào quan niệm [luân hồi] loại này, còn một bên thì không. Họ đã chia rẽ vô cùng sâu sắc.
Và với bên những người mà không hiểu điều này hoặc không tin điều này, hoặc hoàn toàn ngờ vực sự tồn tại của thế giới tâm linh, thì họ sẽ bị sinh ra ở những cảnh giới khác rất giống như Trái đất này, những nơi đó đầy bạo lực và chiến tranh. Họ sẽ bị sinh ra ở những cảnh giới đó. Vì vậy, giờ đây chúng ta được chuẩn bị sẵn sàng nhờ hội thảo tuyệt diệu này. [Điều đó sẽ đến] rất sớm, rất nhanh.
Cám ơn rất nhiều.

Nhãn: , , , , , , ,

Thứ Hai, 30 tháng 1, 2012

Ảo ảnh thiên nhiên - hiện tượng kì bí chưa có lời giải

Nó kinh ngạc đến mức chưa nhà khoa học nào có thể lí giải.
Đôi nét về hiện tượng ảo ảnh

Ảo ảnh (mirage) là một hiện tượng tự nhiên được nói tới từ xa xưa nhưng chưa có nhà khoa học nào có thể lí giải. Chắc hẳn trong đời, chúng mình đã từng tận mắt nhìn thấy hiện tượng ảo ảnh đơn giản - ví dụ như câu chuyện thường thấy ở sa mạc: trong không khí nóng nực, người lữ hành bỗng thấy xuất hiện mặt hồ với làn nước xanh biếc, sóng lăn tăn phía trước mặt hoặc ốc đảo với những hàng cây chà là xanh ngắt.


Hiện tượng ảo ảnh thường thấy ở sa mạc.

Về trường hợp này, các nhà vật lí và toán học đã dựa vào hiện tượng bẻ cong của ánh sáng khi nhiệt độ cao để giải thích một cách khoa học. Thế nhưng, đã có hàng vạn người từng “mục sở thị” cả một thành phố, một tòa lâu đài li kì cổ quái, thậm chí là cả một đoàn quân đang rầm rập hành quân hay tham gia một cuộc giao tranh dữ dội… Với những hiện tượng thiên nhiên kì bí này, ngay cả các nhà khoa học cũng phải lắc đầu, không thể giải thích nổi.

Từ xưa đến nay, trên thế giới từng lưu truyền nhiều câu chuyện kể về hiện tượng ảo ảnh. Tài liệu chữ viết sớm nhất nhìn nhận hiện tượng này dưới con mắt khoa học là cuốn tạp chí tàu thuyền “Nhật kí hành trình săn cá voi miền Bắc - công trình khảo sát khoa học về những điều tai nghe mắt thấy tại bờ biển đông Greenland”, trong đó có kể tỉ mỉ về chuyện vào mùa hè năm 1820, viên thuyền trưởng Pavofee đã tận mắt chứng kiến cảnh tượng cả một thành phố lớn với tầng tầng lớp lớp nhà thờ và pháo đài cổ hiện ngay trước mặt.

Năm 1840, dân cư trên một hòn đảo nhỏ nước Anh đều nhìn thấy một tòa màu trắng rất đẹp sừng sững, ngạo nghễ đứng trong không trung, qua hiện tượng này mà cư dân nơi đây càng tin tưởng rằng thành phố pha lê trong truyện dân gian Hà Lan là có thật. 17 năm sau, cũng tại chính hòn đảo xa ngàn dặm này, cảnh tượng “thành phố pha lê của Hà Lan” trong truyền thuyết lại xuất hiện thêm một lần nữa và kéo dài tới 3 giờ đồng hồ.

Tới cuối thế kỉ 19, người ta mới lại thấy xuất hiện những bản ghi chép bằng giấy trắng mực đen nói về việc xảy ra hiện tượng ảo ảnh. Năm 1889, một người dân Anh đang đi bộ ở chân dãy núi miền Đông Nam bỗng giật mình khi thấy trước mặt xuất hiện mờ ảo một thành phố lớn với những tòa cao ốc chọc trời, những tòa tháp cao vút cùng với cột cờ và những nóc nhà hình củ hành của đền thờ Hồi giáo.

Alaska cho tới nay là vùng đất có thể quan sát tốt nhất sự xuất hiện của hiện tượng ảo ảnh. Người ta đã thành lập ở đây hẳn một cơ quan chuyên nghiên cứu về các hiện tượng quang học tự nhiên và còn xuất bản hẳn một tờ tạp chí chuyên về vấn đề này. Du khách ở Canada và Mỹ thường xuyên tới nơi đây để chiêm ngưỡng những hình tượng ảo ảnh kì thú như núi non, thành quách, đền tháp… xuất hiện đột ngột nơi chân trời ngoài mặt biển và tất nhiên, biến mất đột ngột.

Sự xuất hiện Fata Morgana thần bí

Hiện tượng ảo ảnh mang tên Fata Morgana được coi là hiện tượng ảo ảnh kì bí nhất trên thế giới. Nó hư vô, huyền ảo và biến hóa khôn lường. Cho tới nay vẫn còn là một bí ẩn tự nhiên khoa học chưa thể giải thích nổi. Fata Morgana lấy tên của Morgan Le Fay theo tiếng Italia. Theo truyền thuyết, nàng là chị cùng cha khác mẹ của Quốc vương Arthur, vì bị “ý trung nhân” của mình từ chối, hắt hủi nên đã dọn xuống cư ngụ ở “Thủy tinh cung” dưới đáy biển. Từ đó, nàng thường hóa phép hiện hình thành ma quái kì ảo, biến hóa khôn lường để đánh lừa, trêu chọc đám thủy thủ tứ chiến giang hồ qua lại.

Tháng 4 năm 1900, trong thời gian đang diễn ra cuộc chiến tranh giữa quân viễn chinh Anh Quốc và tộc người Boer tại Nam Phi, các dũng sĩ người Boer trong khi đang bảo vệ cứ điểm bỗng tá hỏa khi nhìn thấy trên không trung xuất hiện toán quân Anh đang hành quân thành mấy hàng chỉnh tề, rõ tới mức nhìn thấy cả hàng cúc đồng trên tấm áo màu đỏ của sĩ quan. Đây được họ coi như một điềm gở báo trước. Quả nhiên, sau đó hai ngày, thủ đô của họ đã bị quân Anh đánh tan tác và thất thủ.

Năm 1902, Robert Birt, học giả người Mỹ được mệnh danh là “Thầy phù thủy của vật lí thực nghiệm” đã chụp được một bức ảnh hai bé trai đang ghé tai thì thầm với nhau điều gì đó ngay trên… mặt nước biển, giữa hai chiếc thuyền đang chạy trong vịnh Cesapick (Mỹ). Ngạc nhiên hơn, chúng cao tới tận 3 mét.




Theo nguyên lí Mach, sự xuất hiện ảo ảnh Fata Morgana là do sự biến hóa phi tuyến tính của nhiệt độ trên tầng cao không khí. Thoạt đầu, nhiệt độ tăng lên theo chiều cao, nhưng sau khi lên tới một độ cao nhất định, thì tốc độ biến hóa của nó chậm dần. Loại tầng đứt gẫy hình thành do sự biến đổi mạnh của nhiệt độ này được các nhà khoa học gọi là “thấu kính không trung”. Có thể khẳng định rằng hiệu ứng khí tượng như vậy là nguyên nhân trực tiếp sinh ra ảo ảnh Fata Morgana. Thế nhưng để phân tích và lí giải cặn kẽ hơn về kết cấu của hiện tượng này để mọi người phải công nhận thì chưa nhà khoa học nào có thể thực hiện được.

Cơ chế ảo ảnh Fata Morgana.

Nhãn: , , , , , ,

Thành phố vàng El Dorado và bí ẩn kho báu vô giá

Các công trình kiến trúc nơi đây đều được dát vàng ròng: từ cung điện nhà vua cho tới nhà dân bình thường...
Thành phố vàng El Dorado được đặt theo tiếng Tây Ban Nha (có nghĩa là “dát vàng”). Đây là đất nước của người Inca cổ đại tại vùng rừng rậm Amazon. Theo những nhà thám hiểm Tây Ban Nha kể lại, tên đất nước này xuất phát từ tục lệ dát vàng lên người nhà vua trị vì vương quốc lúc bấy giờ.


Theo chân truyền thuyết và những dấu vết…

El Dorado là thành phố huyền thoại nổi tiếng nhất trong lịch sử loài người. Nó được cho là nằm lẩn khuất sâu trong rừng già Amazon, được bảo vệ cực kì cẩn mật, rất khó tìm đường vào và một khi vào thì sẽ không thể trở ra được. Câu chuyện xung quanh đế chế này bắt nguồn từ lời kể của những nhà thám hiểm Tây Ban Nha đầu tiên khám phá châu Mĩ như Francisco de Orellana, Juan Martinéz (vốn là công nhân sửa đường trong cuộc thám hiểm của Diego de Ordaz đã bị bỏ rơi), Luiz Daza - một viên sĩ quan Tây Ban Nha miêu tả về vùng đất nằm giữa sông Amazon và hồ Parima ở Guyana. 

Theo đó, El Dorado là một vương quốc giàu có hùng mạnh của nền văn minh Inca cổ xưa. Tại thủ đô Manoa của đế chế này, các công trình kiến trúc vô cùng lộng lẫy, tất cả đều được dát vàng ròng từ cung điện, cầu đá, tượng thần Mặt trời Inti đến nhà dân bình thường... Thành phố giàu có đến nỗi, buổi tối trước khi ngủ, vua trị vì dát vàng lên người, sáng hôm sau thì rửa sạch. Vàng thậm chí còn bị coi là kim loại bình thường, người ta sử dụng chỉ với mục đích thờ thần linh bởi ánh sáng của nó được người Inca coi là “mồ hôi của Mặt trời”.

Truyền thuyết càng có cơ sở hơn khi vị vua Atahualpa của người Inca đã chất đầy các đồ vật bằng vàng trong ngôi nhà dài 6,7 mét, rộng 5,2 mét, cao chạm tay người để hi vọng có thể đổi lại tự do cho mình khi ông bị bắt làm tù binh trong một trận đánh năm 1533. Liệu các bạn có tin rằng số vàng nơi đây nhiều như thế không?

... đến những cuộc phiêu lưu mạo hiểm truy tìm kho báu

Dưới sức lan truyền của thực dân Tây Ban Nha sau khi tiêu diệt nền văn minh cổ đại châu Mĩ, tin tức về thành phố - nơi mà người dân dát vàng lên người nhanh chóng bay tới mọi ngõ ngách thế giới. Điều này làm sôi máu bất cứ những ai hám vàng; liên tiếp những cuộc khám phá rừng Amazon nổ ra với mong muốn tìm thấy kho báu khổng lồ.

Năm 1540, Gonzalo Pizarro, vị thống lĩnh khu vực Quito ở Bắc Ecuador ngày nay, đã tập hợp hơn 340 binh lính và 4.000 thổ dân da đỏ đi tìm El Dorado. Gonzalo phải bỏ cuộc sau khi nhiều người trong đoàn chết vì đói, bệnh tật và bị thổ dân trong rừng Amazon tấn công. Sau một thời gian dài chống chọi với bệnh dịch, nạn đói và bị tấn công bởi những người bản xứ, cuộc thám hiểm đã bị hủy bỏ. Đó là chuyến đi đầu tiên mà người ta ghi lại.

Chuyến thám hiểm tiếp theo là của nhà thám hiểm Gonzalo Jiménez Quesada. Cùng với 800 người thân cận, ông đã lang thang khắp cánh rừng Amazon và cuối cùng chỉ tìm ra... Columbia ngày nay. Đó là một chuyến đi “địa ngục”, sau chuyến thám hiểm chỉ còn 166 người sống sót, phần lớn bị chết bởi rắn, hổ, báo, côn trùng cắn... Kết quả thu được vẫn là một con số 0 tròn trĩnh.

Mãi mà không tìm được El Dorado, nhà thám hiểm Hernán Pérez de Quesada đã bắt những người nô lệ thổ dân da đỏ tát cạn hồ trong vòng 3 tháng. Khi mực nước chỉ còn 3m, người ta đã lấy lên chỉ được khoảng 12 đến 15kg vàng. Chẳng lẽ đây lại là lượng vàng “khổng lồ” của đế chế Inca?

Hàng nghìn người đã đổ đi tìm vàng và kết quả không mấy khả quan. Hầu hết, họ đều phải trả giá cho lòng tham và mơ ước về thành phố vàng trong truyền thuyết. Trong đó, phải kể đến nhà thám hiểm và là đại tá người Anh Percy Fawcett (nguyên mẫu của nhân vật Indiana Jones trong phim ảnh). Ông đã gọi El Dorado là “Thành phố Z” và đã tới Nam Mĩ để thực hiện nhiệm vụ của Hội Địa chất Hoàng gia Anh. Ông đã đọc được báo cáo của những người lính đánh thuê và đã vạch ra kế hoạch thám hiểm. Nhưng trong khi ông đang chuẩn bị tiến vào “Thành phố Z” thì chiến tranh nổ ra khiến mọi việc gián đoạn. Sau này, ông có quay trở lại Nam Mĩ năm 1920 và 1925 để tìm kiếm, kết quả là năm 1927 ông mất tích. Đến nay, chuyện này vẫn là điều bí ẩn chưa có lời giải.

Vậy ra “thành phố vàng” chỉ là tin đồn và truyền thuyết?

Câu trả lời gần đây nhất của các nhà khoa học là không! Họ tin rằng có sự tồn tại của thành phố này dù chưa ai khám phá ra nó. Những bằng chứng đã được đưa ra bởi 3 nhà khoa học đã tiến gần tới việc chứng minh sự tồn tại của El Dorado. Tạp chí Antiquity vừa đăng bài viết của họ về việc phát hiện hơn 200 vết tích lớn của El Dorado tại khu vực lòng chảo Amazon, gần biên giới Brazil và Bolivia.

Bản đồ El Dorado.

Những bằng chứng mới được các nhà khoa học tìm ra gần đây. 

Theo đó, từ trên cao, trông các vết tích này như những đường kẻ địa lí được khắc vào mặt đất. Nhưng các nhà khoa học cho rằng những đường nét này là phần còn lại của các con đường, cây cầu, hào sâu, đại lộ và quảng trường. Tất cả đều từng là nền tảng của một thành phố văn minh nằm trong khu vực dài hơn 200km. Thành phố này có thể đã là nơi sinh sống của một cộng đồng dân cư khoảng 60.000 người và những tàn tích mới được phát hiện có niên đại từ năm 200 - 1283. Đó được xem là một phát hiện đáng kinh ngạc do lâu nay, không ít người vẫn nghi ngờ sự tồn tại của El Dorado.
 

Nhãn: , , , , , , ,

Những hiện tượng "kinh ngạc" trước và sau khi chết

Đã bao giờ bạn đặt câu hỏi: cơ thể người sẽ phản ứng thế nào khi đang hấp hối? Điều gì sẽ xảy ra khi một người tắt thở? Sự thật là cơ thể có những phản ứng khác nhau trước và sau khi chết. Dưới đây là những hiện tượng xuất hiện khi hấp hối và trong quá trình khám nghiệm tử thi.

1. Tiếng nấc hấp hối (Death Rattle)


Đây là từ được sử dụng khá nhiều trong bệnh viện, diễn tả âm thanh khá rùng rợn khi một người đang hấp hối. Khi cơ thể mất đi phản xạ ho và khả năng nuốt, dẫn đến việc ứ đọng nước bọt trong cổ họng, lúc này, những tiếng nấc hấp hối sẽ được phát ra. Âm thanh này thường khiến gia đình bệnh nhân lo sợ, thậm chí là ám ảnh, dù nó hiếm khi gây đau đớn cho người bệnh. Các bác sĩ thường sử dụng thuốc giảm đau, phương pháp hút hoặc uống thuốc an thần nhằm tạo sự thoải mái cho bệnh nhân, giúp họ ra đi thanh thản. Bên cạnh đó, điều này cũng tránh gây lo sợ cho gia đình.

2. Nhịp thở Cheynes Stokes (Cheynes Stokes Respiration)

Đây là hiện tượng thở bất thường, diễn ra luân phiên với biên độ lớn giữa giai đoạn thở rất nhanh và giai đoạn ngưng thở (apnea). Nguyên nhân của tình trạng này là do tim đã yếu và khi hoạt động quá mức, nó dẫn đến hiện tượng thở nhanh (hyperventilate). Ngay sau đó là giai đoạn ngưng thở do cơ thể không đủ năng lượng để duy trì. Khi tim đã yếu, các cơ quan trong cơ thể nhận được ít máu, oxy hơn, dẫn đến việc các tế bào chết dần và người bệnh sẽ tắt thở. Những người đang hấp hối thường có hiện tượng này nhưng nó cũng xảy ra ở bệnh nhân bị trụy tim hay rối loạn hô hấp.

3. Sự bài tiết (Defecation)

Sau khi chết, các cơ bắp không còn nhận được năng lượng, ruột sẽ buông lỏng và xuất hiện sự bài tiết, đặc biệt là ở những người ăn trước khi chết. Điều này hỗ trợ rất nhiều cho việc khám nghiệm tử thi trong những trường hợp chết bất thường. Đối với bệnh nhân ở nhà tế bần, họ có thể không thấy ngon miệng vào những ngày cuối nên hiện tượng này hiếm khi xảy ra.

4. Sự co cứng (Rigor Mortis)

Nói đơn giản hơn thì đây là hiện tượng xác chết cứng lại. Sau khi chết, cơ thể không thể phá vỡ những liên kết làm co cơ dẫn đến sự co cứng vĩnh viễn. Trong hầu hết các trường hợp, sự co cứng diễn ra từ 1 tới 3 giờ sau khi chết và ở trạng thái cứng hoàn toàn sau 24 giờ. Hiện tượng này có cả ở mí mắt nên những trường hợp không nhắm mắt khi chết, các cơ mắt sẽ giữ cho mắt mở to (chết không nhắm mắt).

5. Hạ thân nhiệt (Algor Mortis)

Hiện tượng hạ thân nhiệt của cơ thể sau khi chết (hay còn gọi là tử thi lạnh) chỉ xảy ra khi nhiệt độ môi trường thấp hơn nhiệt độ cơ thể tại thời điểm chết. Mức độ lạnh cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố: vị trí cơ thể (so với Mặt trời), quần áo và nhiệt độ phòng nơi chết. Người chết ở sàn nhà tắm sẽ lạnh nhanh hơn ở ngoài trời 35 độ. Ngoài ra, người béo phì cũng có thời gian lạnh lâu hơn, trẻ sơ sinh lại có mức độ lạnh tương đối nhanh. Thông thường, phải mất khoảng 24 giờ để một xác chết lạnh hoàn toàn.

6. Chảy dịch (Purge Fluid)

Hiện tượng thối rữa, tạo thành chất lỏng màu nâu đỏ có mùi thối, chảy ra từ miệng và mũi, được gọi là chảy dịch (Purge Fluid). Nó có thể khiến nhiều người nhầm với chấn thương não. Tình trạng này được giải thích là do sự hình thành khí trong cơ thể, tích tụ trong ruột và dạ dày khiến bụng căng lên, tạo áp lực khiến chảy dịch từ mũi, mồm, vùng kín, và cả trực tràng. Hiện tượng này giúp ích cho việc xác định thời gian chết. Ở những nơi có nhiệt độ cao, hiện tượng chảy dịch có thể xuất hiện dưới 24 giờ.

Nhãn: , , , , , ,

Chủ Nhật, 29 tháng 1, 2012

Tìm hiểu về chiếc gương sát nhân "Louis Alvarez 1743"

Trong suốt hơn 200 năm, nó đã khiến gần 40 người Pháp đột tử vì chứng tràn máu não.
Chân dung kẻ sát nhân

Chiếc gương này được nghệ nhân Louis Alvarez chế tác và xuất xưởng vào năm 1743 ở Pháp. Chỉ 2 ngày sau khi hoàn thành chiếc gương, người thợ vốn đang khỏe mạnh bình thường bỗng đột ngột qua đời trong nhà xưởng vì chứng tràn máu não. Không ai liên tưởng về sự ra đi bất ngờ của ông tới chiếc gương soi kia. Nó đã được đưa ra bày bán tại cửa hàng tạp hóa và bắt đầu chuỗi hành trình gieo rắc cái chết.

Nạn nhân thứ hai sau Alvarez là Tesemer, ông chủ cửa hàng bột mì tại thành phố cảng Marseille. Tới cửa hàng mua sắm quà sinh nhật cho người vợ, ông cảm thấy thích chiếc gương và móc hầu bao mua luôn. Tối hôm đó, trong căn biệt thự lộng lẫy của mình, buổi lễ sinh nhật hoành tráng đã được diễn ra. Sau khi lấy chiếc gương ra khỏi hộp quà tặng vợ, thuận tay, ông đưa chiếc gương chạm khắc tinh xảo lên soi. Bỗng nhiên, Tesemer cảm thấy ớn lạnh toàn thân, rùng mình, đầu óc nặng trĩu, cảnh vật trước mắt chông chênh, chao đảo. Bà vợ thấy vậy vội đỡ ông, dìu vào phòng nhưng đáng tiếc, ông đã ra đi. Cũng như Louis, ông được chẩn đoán tử vong vì chứng tràn máu não. Người vợ trẻ quá đau buồn đã bán và đem cho mọi đồ vật riêng tư của ông để không gợi lại kí ức cũ. Chiếc gương "quỷ ám" thất lạc từ đó.

Chiếc gương sát nhân này tiếp tục “tác quái” vào 22 năm sau đó, tức năm 1765. Nạn nhân thứ ba của nó là Arnold, biên tập viên trẻ tuổi của một nhà xuất bản. Anh ta mua được chiếc gương này tại một cửa hàng trên vỉa hè thủ đô Paris và mang nó về treo ngay đầu giường của mình trong phòng ngủ. Ngay sau đó, Arnold mất tích và khi tới căn chung cư của anh để tìm, mọi người sững sờ khi thấy anh đã qua đời nhiều ngày trong chính căn hộ đó. Thật đáng sợ, nguyên nhân chính vẫn là do tràn máu não.

Nạn nhân thứ tư là Henry, một ông chủ cửa hàng đồ cổ. Trong khi đi dạo tại khu chợ mua bán đồ cũ, ông đã bắt gặp chiếc gương được chạm khắc tinh xảo này nên đã mua lại và mang về cửa hàng với hy vọng bán được chiếc gương rẻ mạt này với giá cao. Thật không may, ba ngày sau đó, Henry đã đột tử tại cửa hàng trong khi đang thưởng thức ly cà phê sữa sau bữa ăn trưa. Đặc biệt thay, nguyên nhân tử vong của ông là do chứng… tràn máu não.

Những tin đồn về chiếc gương ma này bắt đầu lan truyền khắp nước Pháp kể từ khi một người bạn thân của Henry tới dự đám tang và bất giác, giật thót người khi thấy chiếc gương “Alvarez 1743”. Ông cũng là bạn thân của Arnold - nạn nhân thứ ba của chiếc gương sát nhân. Mấy năm trước, khi tham dự đám tang của Arnold, ông cũng đã từng bắt gặp nó. Ông liên hệ cái chết của hai người bạn cùng chiếc gương quỷ quái này và họ cùng chết do chứng tràn máu não. Liệu có mối quan hệ nhân - quả gì ở đây không? Quá lo sợ nên dù chưa có chứng cứ xác thực, ông vẫn khuyên gia đình Henry mang chiếc gương này đi vứt bỏ.

Sự việc càng ngày càng quái dị hơn khi chiếc gương tiếp tục gây ra cái chết oan nghiệt cho hai nạn nhân tiếp theo là ông Hanmer và vợ ông (bà Jura) sau 70 năm lưu lạc. Bà Jura đã mua được chiếc gương cổ này trong một lần đi dạo và mang về đặt trên chiếc bàn viết ở nhà. Không ngờ được rằng việc làm vô tình đó đã gây ra cái chết oan uổng cho cả hai người ngay sau đó. Cả hai đã lần lượt qua đời trên đường tới bệnh viện cấp cứu bởi nguyên nhân vẫn là chứng bệnh tràn máu não.

Đã có thêm hơn 20 người nữa chết “bất đắc kì tử” trong vòng hơn 100 năm sau đó. Hầu hết trước khi đột tử, họ đều rất khỏe mạnh, không nghiện ngập hay mắc bất cứ chứng bệnh gì. Họ chỉ qua đời trong vòng ba ngày sau khi tiếp xúc với chiếc gương quỷ ám và nguyên nhân dẫn họ tới cái chết đều giống nhau. Trong số họ, có những người không biết tới chiếc gương này và chỉ tình cờ sử dụng nó; nhưng cũng có những người biết, tò mò, cố tình sử dụng. Dù thế nào nhưng tất cả họ đều phải nhận lấy cái chết.

Nạn nhân thứ 38 của chiếc gương là tiến sĩ Smith. Là nhà khoa học nên ông không hề tin chuyện chiếc gương này có... yêu ma hại người. Ông quyết định vén bức màn của bí ẩn này. Thế nhưng chỉ sau khi tiếp cận được chiếc gương không lâu, ông đã cảm thấy hoa mắt, chóng mặt, nhức đầu rồi tử vong ngay sau khi dặn dò người nhà hãy cất kĩ chiếc gương hại người này. Tất nhiên, nguyên nhân dẫn đến cái chết của ông vẫn giống 37 người trước.

Những giả thuyết ban đầu

Cái chết bí ẩn của tiến sĩ Smith đã thôi thúc Hiệp hội Sưu tầm Đồ cổ Pháp khẩn cấp công bố trước báo chí về sự nguy hại của việc tiếp cận chiếc gương. Nhiều nhà khoa học có sự quan tâm đặc biệt xung quanh bí ẩn này; nhưng không ai dám giữ nó lại bên mình để nghiên cứu chỉ vì “chiến tích” của nó. Họ đua nhau đưa ra những phán đoán của bản thân nhưng đều không thể chứng minh chúng.

Từ thời Trung cổ, có nhiều học giả cho rằng gương soi như một tấm sắt tự hấp thụ chất độc xung quanh và bốc hơi lên dần, ảnh hưởng tới sức khỏe của người tiếp xúc. Tuy nhiên, giả thuyết này không đứng vững bởi nếu đúng là mặt gương có khả năng hấp thụ hơi độc thì chỉ cần rửa bằng nước lạnh là có thể hòa tan, làm sạch chúng. Ngoài ra, không thể giải thích về nguyên nhân của sức mạnh sát thương lớn đến như vậy của chiếc gương.

Các nhà khoa học Nga thì mở rộng vấn đề hơn. Họ nhận định rằng chiếc gương không chỉ có khả năng hấp thụ chất hóa học hữu hình mà còn có thể hấp thụ các “năng lượng thông tin vô hình”. Vật chất hữu hình có thể gột rửa, nhưng với năng lượng vô hình, điều đó không thể thực hiện được. Tuy nhiên, họ chưa thể lí giải trọn vẹn tại sao trong khi những chiếc gương khác hoàn toàn bình thường thì chiếc gương kì quái này lại có thứ năng lượng vô hình đó. Ngoài ra, một số người cũng hoài nghi chiếc gương được tráng thêm những chất phụ gia độc hại nhưng không ai dám lại gần chiếc gương để… làm thí nghiệm kiểm chứng. Thời gian càng trôi đi, bức màn bí mật bao phủ quanh chiếc gương “quỷ ám” này ngày càng dày thêm, khiến mọi người nhìn nó không còn dưới “con mắt khoa học” nữa mà tin rằng bên trong nó có một “sức mạnh siêu nhiên” bí ẩn. Thậm chí, đã có bộ phim kinh dị được dựng lên từ câu chuyện kì bí này, càng tô vẽ thêm tính li kì, đáng sợ cho câu chuyện.

Liều mình vén bức màn bí ẩn

Tháng 4/2005, Waine (tiến sĩ khảo cổ người Mỹ) thực hiện chuyến bay tới Paris xin phép Hiệp hội Sưu tầm Đồ cổ Pháp tiến hành điều tra chiếc gương “ma” này thêm một lần nữa. Chuyện tiến sĩ Waine liệu có trở thành nạn nhân thứ 39 của chiếc gương sát nhân hay không bỗng trở thành tiêu điểm của giới truyền thông và dân chúng. Tuy nhiên, đề nghị này của ông không được chấp thuận bởi họ không muốn chứng kiến thêm một bi kịch nữa gây ra bởi chiếc gương.

Không nản lòng, ông đã tới gặp cháu nội của tiến sĩ Smith. Trước nỗ lực và tấm lòng chân thành của Waine, người cháu này đã giúp mang chiếc tráp gỗ có đựng chiếc gương được niêm phong kĩ giao cho ông. Sau khi có được chiếc gương, ông đã nhanh chóng đáp máy bay về Mỹ nghiên cứu.

Bỏ mặc mọi lời ngăn cản của người vợ, ông vẫn quyết tâm thực hiện hành động “điên rồ” là tìm hiểu chân tướng sự việc. Sau bao nhiên năm ngủ trong bóng tối, phủ đầy bụi bặm, cuối cùng chiếc gương ma quái cũng được nhìn thấy ánh mặt trời. Ông đã tiến hành một số nghiên cứu giám định và nhận ra tuổi của mặt gương chưa tới 100 năm. Vậy rất có thể là mặt gương đã bị ai đó thay mới vào và như vậy thì chiếc khung gỗ xinh xắn được chạm khắc tinh xảo kia chính là hung thủ giết người hàng loạt.

Sau khi rời thư viện trường đại học quay trở về nhà, bước vào phòng thí nghiệm, ông thất thần khi thấy hai con chuột bạch làm thí nghiệm nhốt trong chiếc lồng sắt đặt trước gương đã chết cứng từ bao giờ. Chiếc gương ma lại một lần nữa “tác yêu tác quái”. Khi giải phẫu, ông sững sờ khi thấy trong não chúng chứa đầy máu đọng. Chúng đã “ra đi” vì chứng tràn máu não.

Để kiểm chứng dự đoán của mình, ông đã gọt lấy một vài mẩu dăm trên khung gỗ chiếc gương để làm mẫu hóa nghiệm. Theo kết quả nhận được, chiếc khung gỗ của gương “ma” được chế tạo bằng gỗ cây coura - một loại cây gỗ rất hiếm gặp đã tuyệt chủng hơn 100 năm nay.

Theo tài liệu nghiên cứu, gỗ cây coura chứa một loại chất cực độc, khi hứng luồng ánh sáng tự nhiên càng mạnh rọi vào thì chất độc từ gỗ bay hơi tạo thành luồng khí độc càng nhiều. Khí này khiến mạch máu của não người hít phải ngay lập tức bị tắc nghẽn, nứt vỡ rồi nhanh chóng tràn máu lên não và qua đời. Tiến sĩ Waine đã thoát khỏi lưỡi hái tử thần do có thói quen đóng kín rèm cửa sổ khi vào phòng thí nghiệm và thể trạng tốt. Khi ông rời khỏi phòng, để thoáng khí, bà vợ đã mở cửa sổ ra, ánh sáng mặt trời ùa vào phòng khiến chất độc bay hơi mạnh, gây nên cái chết cho hai con chuột bạch kia.

Thế nhưng, khi rất đỗi vui mừng và chuẩn bị công bố kết quả nghiên cứu tới giới khoa học và các phương tiện truyền thông thì ông tá hỏa khi chiếc gương đã “không cánh mà bay”. Bởi không có hiện vật gốc nên ông không thể chứng minh được rằng những mẩu dăm gỗ kia được gọt từ khung của chiếc gương sát nhân ấy. Bí ẩn tưởng chừng như đã có thể hé lộ ra giờ lại đang có nguy cơ bị chôn vùi…

*Bài viết có sử dụng các tài liệu đã được Hiệp hội Sưu tầm Đồ cổ Pháp công bố.




Nhãn: , , , , , ,

Thứ Bảy, 28 tháng 1, 2012

Chính phủ Mỹ từng hợp tác với người ngoài hành tinh?

Washington trong thời gian gần đây bắt đầu có xu hướng cho phép công bố nhiều tài liệu nhạy cảm liên quan đến việc tiếp xúc của Chính phủ nước này với người ngoài hành tinh.

Đáng chú ý là bản báo cáo đặc biệt có tên “Chính phủ bí mật” của William Cooper, trong đó có nêu ra nhiều chi tiết hết sức bất ngờ và khó tin. Hay người Mỹ còn có được thông tin khẳng định: vệ tinh nhân tạo đầu tiên của Liên Xô từng nhận được thông điệp của người ngoài hành tinh…
Báo cáo bất ngờ và kết cục bi thảm của tác giả
Nội dung báo cáo của Cooper tiết lộ rằng, chỉ riêng trên lãnh thổ nước Mỹ trong giai đoạn 1947-1952 có hơn chục con tàu của người ngoài hành tinh hạ cánh – một số bị vỡ nát, một số khác buộc phải hạ cánh khẩn cấp. Kết quả là trong tay người Mỹ có 65 thi thể và… một người ngoài hành tinh còn sống.
Người Mỹ có khá nhiều bằng chứng chi tiết về hai thiết bị bay lạ bị rơi và vỡ nát tại bang New-Mexico – chiếc đầu tiên vào ngày 13/2/1948 rơi xuống khu vực cao nguyên gần Azteca, chiếc thứ hai vào ngày 25/3 cũng trong năm đó rơi tại Nart Canyon. Nhiều khả năng, phi hành đoàn trong chiếc tàu thứ hai đã bay tới với mục đích cứu hộ, nhằm tìm kiếm chiếc tàu thứ nhất. Trên cả hai chiếc tàu, người ta tìm thấy thi thể của 17 người ngoài hành tinh.
Đáng sợ hơn là trong đó, các nhà chức trách còn phát hiện ra những phần cơ thể người được cắt ra, được cho là để người ngoài hành tinh nghiên cứu. Những tài liệu mô tả những sự kiện trên đều được lưu trữ với con dấu “Tuyệt mật”. Lý giải cho điều này cũng không có gì quá ngạc nhiên, khi công chúng thời đó sẽ kinh hoàng như thế nào khi biết được chuyện này.
Một tài liệu về các thông điệp của người ngoài hành tinh được NSA công bố.
Đến cuối năm 1947, sau khi một loạt đĩa bay thi nhau hạ cánh xuống đất Mỹ, Chính phủ của Tổng thống Harry Truman khi đó quyết định thành lập những nhóm nghiên cứu đặc biệt, với thành phần gồm nhiều nhà khoa học nổi tiếng tập hợp trong hai dự án có tên “Project Sign” và “Project Grudge”. Dự án “Grudge” về sau này có mục tiêu chính trị là triển khai một chiến dịch giả tuyên truyền về hiện tượng vật thể bay không xác định (UFO) tại nước Mỹ.
Ngày 4/11/1952, Tổng thống Truman chỉ thị thành lập một cục an ninh quốc gia bí mật chuyên nghiên cứu về những cuộc tiếp xúc với người ngoài hành tinh trong khuôn khổ dự án có tên “Sigma”. Cục này có nhiệm vụ chính là tổ chức nghe trộm những cuộc điện đàm trên khắp thế giới với hy vọng lần ra dấu vết của những người ngoài hành tinh. Ngoài ra, các nhân viên cơ quan này cũng có trách nhiệm ngăn cản bất cứ nguy cơ rò rỉ thông tin nào về những người ngoài hành tinh. Vấn đề người ngoài hành tinh tiếp tục được Truman bàn giao lại cho người kế nhiệm Dwight Eisenhower vào năm 1953. Những vụ tai nạn của tàu ngoài hành tinh vẫn tiếp tục xảy ra dưới thời ông này.
Đáng chú ý là có một vài đối tượng lái những con tàu này vẫn sống sót và bị bắt làm tù binh. Tổng thống Eisenhower và thành viên Hội đồng quan hệ quốc tế Nelson Rockefeller đã cùng thành lập ra một tổ chức đặc biệt chuyên theo dõi những người ngoài hành tinh có tên MJ-12. Theo những tài liệu được giải mật, trường hợp chính thức tiếp xúc lần đầu tiên với người ngoài hành tinh xảy ra vào năm 1954.
Những sinh vật có hình dạng giống con người trên một chiếc đĩa bay hạ cánh xuống căn cứ quân sự Holloman, đề xuất một thỏa thuận với Chính phủ Mỹ. Những sinh vật này khẳng định, họ đã bay tới từ chòm sao Orion, và hành tinh quê hương của họ đang chết dần vì một điều kiện bất lợi về sinh thái. Đó là lý do khiến họ đang rất cần một không gian để sinh sống. Đến lần hạ cánh thứ hai của họ tại căn cứ Edwards, Eisenhower đích thân có mặt tại đây để ký kết với các vị khách ngoài hành tinh một thỏa thuận. Tham gia ký kết về phía người ngoài hành tinh có tay đại sứ được gọi là “Krill”.
Điều kiện cơ bản của thỏa thuận trên chính là không được can thiệp vào công việc của nhau. Mỹ cam kết giữ bí mật về việc người ngoài hành tinh tới trái đất. Những nội dung hợp tác cụ thể tiếp theo là hai bên thỏa thuận với nhau cùng trao đổi những công nghệ tiên tiến, đồng thời tạo điều kiện cho các nghiên cứu sinh học về cơ thể của nhau. Chẳng hạn người ngoài hành tinh được phép bắt người để nghiên cứu với điều kiện không gây tổn hại cho họ, đồng thời phải khiến cho họ quên tất cả khi được trả về.
Người Mỹ cho thành lập một cơ quan đặc biệt tại Colorado chịu trách nhiệm đảm bảo an toàn cho các đối tượng ngoài hành tinh. Washington cho triển khai dự án “Redlight” nhằm tập trung khai thác công nghệ ứng dụng trong các thiết bị bay của người ngoài hành tinh. Chính quyền Mỹ cũng cho xây dựng hàng loạt căn cứ ngầm dưới đất làm những căn cứ bí mật cho người ngoài hành tinh.
Nhờ việc tiếp xúc với người ngoài trái đất, Mỹ đã tiếp thu được một số công nghệ mới, giúp họ triển khai một chương trình nghiên cứu vũ trụ quy mô lớn. Cũng cần nói thêm về số phận bi kịch của William Cooper, người dám tiết lộ những bí mật của Chính phủ Mỹ trong các nỗ lực tiếp xúc với người ngoài hành tinh. Ông đã bị cảnh sát bao vây và bắn chết trong những hoàn cảnh chưa được làm sáng tỏ (không hề có dấu hiệu đe dọa các đại diện của cơ quan hành pháp) vào đêm ngày 5/11/2001.
Vệ tinh Liên Xô nhận thông điệp của người ngoài trái đất
Tác giả của tài liệu mới được công bố về chủ đề trên là Howard Campaigne, một nhà toán học nổi tiếng, được coi là bậc thầy về mật mã. Chính ông này cùng với những đồng nghiệp trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai đã thành công trong việc giải mã hàng loạt những bức điện mật của phát xít Đức. Sau chiến tranh, Campaigne đã chuyển tới sinh sống và làm việc tại nước Mỹ.
Theo Campaigne, chính vệ tinh đầu tiên của Liên Xô được phóng vào tháng 10/1957 đã thu nhận được tổng cộng 31 bức điện của… người ngoài hành tinh. Không biết vì lý do nào, những bức điện vệ tinh của Liên Xô thu được lại rơi vào tay người Mỹ. Kết quả là Campaigne được Cơ quan Hàng không vũ trụ Mỹ (NASA) giao cho nhiệm vụ giải mã những bức điện bí ẩn trên.
Một trong số những thông điệp trên được NSA công bố có chứa những công thức toán học và một số phương trình phổ dụng. Một số khác có chứa một phần bảng tuần hoàn Mendeleev. Một số thông điệp còn lại hiện giờ vẫn chưa giải mã được, nhưng theo Campaigne và các đồng nghiệp, đó là những dạng câu bí ẩn nào đó.
Nhà Trắng một thời gian ngắn trước đó từng khẳng định họ không hề có mối liên hệ nào với người ngoài hành tinh trong quá khứ. Trước vô số những yêu cầu của các nhà báo và người dân đòi phải công khai sự thật, đại diện chính thức Phil Larson từ Ban khoa học và chính sách công nghệ của Nhà Trắng (White House Office of Science & Technology Policy) đã quả quyết rằng, Chính phủ Mỹ không có cơ sở để cho thấy có sự tồn tại của sự sống bên ngoài hành tinh chúng ta.
Tuy nhiên, đại diện Nhà Trắng cũng thừa nhận, điều này “không có nghĩa là chính phủ không bàn bạc về chủ đề cuộc sống ngoài trái đất và không thúc đẩy các nỗ lực tìm kiếm”
(Theo baodatviet)

Nhãn: , , , , , , , ,

Cậu bé người Trung Quốc có khả năng nhìn xuyên bóng tối

Nong Youhui, cậu bé người Trung Quốc đã làm các chuyên gia y tế phải kinh ngạc với khả năng nhìn xuyên qua bóng tối.
Các bác sĩ đã phát hiện ra trường hợp đặc biệt của cậu bé Nong Youhui, sống tại tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc, sau khi người cha của cậu bé mang con mình đến một bệnh viện ở miền nam Trung Quốc để khám, vì đôi mắt của Nong có màu xanh sáng, thay vì màu mắt đen như của phần đông người châu Á.
 
Mắt cậu bé Nong Youhui phát sáng khi gặp ánh đèn pin
Một điều đặc biệt hơn là khi chiếu đèn pin vào mắt, đôi mắt của cậu bé Nong Youhui phát ánh sáng màu xanh, tương tự như khi ánh đèn chiếu sáng vào mắt của một con mèo.
Theo Nong Shihua, cha của cậu bé, thì 2 tháng sau khi được sinh ra, gia đình đã phát hiện điều gì đó bất thường trong đôi mắt của Youhui, nhưng khi mang đến bệnh viện, các bác sĩ cho biết gia đình không phải lo lắng về trường hợp này và đôi mắt sẽ trở nên bình thường khi cậu bé lớn lên.
Tuy nhiên, đôi mắt của cậu bé vẫn không có gì thay đổi cho đến tận bây giờ, và gia đình dường như cũng đã quên mất vấn đề này. Cho đến một ngày khi Youhui phản ánh với giáo viên của mình rằng mắt cậu bé bị mờ và không nhìn rõ. Sau đó, người giáo viên này phát hiện ra rằng mắt cậu bé có khả năng phát sáng khi có ánh sáng chiếu vào.
Người giáo viên này sau đó còn hỏi Youhui xem cậu bé có thể nhìn thấy trong bóng tối, giống như đôi mắt của mèo hay không, thì cậu bé trả lời rằng có. Sau đó, vào một đêm, vị giáo viên này rủ cậu học trò Yonhui cùng đi bắt dế, và cậu bé cho biết vẫn có thể bắt dế mà không cần sử dụng đến đèn pin.
Khi tin đồn về khả năng đặc biệt của cậu bé Nong Youhui được lan truyền, nhiều người đã tìm đến nhà cậu bé để thực hiện nhiều loại kiểm tra khác nhau để xác định xem khả năng của cậu bé là có thật hay không, và cậu bé đã thực sự trả lời được những bài kiểm tra, như xác định đồ vật hay đọc nội dung trong bóng tối…

Nhãn: , , , , ,

Thứ Sáu, 27 tháng 1, 2012

Sự thực về lời nguyền "Ngày tận thế" 2012

Năm 2012 đã đến, rất nhiều người trên thế giới này cũng đang… nửa tin nửa ngờ vào một ngày “nhân loại diệt vong”.


Ngày Trái đất bị tiêu diệt thực chất là sản phẩm của những cái đầu giàu trí tưởng tượng.
Cơ sở khoa học nào ư? Đâu quan trọng. Đôi khi sự tin tưởng ấy chỉ đơn giản là thuận theo số đông, thuận theo thứ cảm xúc trước một điều lạ lẫm, ly kì… Ngày tận thế 21/12/2012 cũng nằm trong “niềm tin” thú vị đó.
Nền văn minh biến mất
Lịch của người Maya
Từ kiến thức toán học và thiên văn, người Maya đưa ra những “Chu kỳ lịch” (b'ak'tun) và họ tin rằng, mỗi một chu kỳ lịch kết thúc thì một thế giới sẽ biến mất để nhường chỗ cho một thế giới khác. Căn cứ theo lịch Maya thì chúng ta đang sống trong thế giới thứ tư và sẽ “tận số” vào Chu kỳ lịch thứ 13 (ghi trên lịch Maya là 13.0.0.0.0), tức 21/12/2012.
Người Maya còn tồn tại trên thế giới này không? Đó là câu hỏi gây nhiều tranh cãi trong giới khoa học. Nhiều nghiên cứu khẳng định rằng, vẫn còn một cộng đồng người Maya sinh sống trên cao nguyên Guatemala (Trung Mỹ). Họ còn giữ được nhiều bản sắc, đặc tính tương tự như những gì mà loài người ghi chép lại về nền văn minh Maya. Nhưng có thể khẳng định, người Maya “xịn” còn tồn tại rải rác đâu đó, song văn minh Maya thì đã biến mất từ lâu, ở khoảng thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 10. Trước khi bị diệt vong, người Maya đã có những thành tựu chói lọi trong sự phát triển chung của loài người.
Bên cạnh nền văn minh Andes, từ hơn 2000 năm trước, người Maya – bộ tộc thổ dân sống tại khu vực Trung Mỹ (Đông Nam Mexico, Bắc Guatemala và Honduras ngày nay) đã chạm tới những gì được xem là tinh hoa nhất về thiên văn học, tính toán thời gian, kiến trúc, toán học…, đặc biệt là xây dựng nhà nước. Giới khảo cổ xác định, từ khoảng thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên, người Maya đã lập nên các quốc gia cổ đại riêng biệt, rồi phát triển mạnh mẽ hơn 800 năm trước khi bị diệt vong. Sự tàn khốc của khí hậu, sự xâm lăng của phương Tây đã đặt dấu chấm hết cho văn minh Maya.
Chu trình lịch thứ 13 –  kết thúc…

Một trong những tinh hoa của nền văn minh Maya mà xã hội hiện đại còn ghi nhận được đó là thành tựu trong thiên văn, toán học và khả năng tính toán, dự báo theo thời gian rất tài tình. Họ tin tưởng vào chu kỳ tự nhiên của thời gian.

Rất nhiều lĩnh vực của nền văn minh Maya này gắn liền với chu kỳ thời gian mà họ tính toán được. Các thầy pháp Maya có nhiệm vụ phân tích các chu kỳ liên hệ giữa vũ trụ và Trái đất và đưa ra những tiên đoán cho tương lai hoặc cơ sở của quá khứ trên những con số tương quan của tất cả các loại lịch của họ. Về tôn giáo, thần thánh của người Maya không riêng biệt như trong các quan niệm của người Hy Lạp. Thần của người Maya cùng một diện mạo do họ hợp nhất vào với nhau trên mọi nẻo đường mà không có giới hạn. Đó chắc chắn là một thế lực siêu phàm trong quan niệm tín ngưỡng của người Maya. Đặc tính "tốt" và "xấu" không phải là điều cố định trong các thần của Maya, không chỉ có một mặt "tốt" tuyệt đối. Cái nào không thích hợp trong suốt một mùa có thể làm nên một sự bắt đầu chu kỳ mới trong quan niệm của tín ngưỡng Maya và không cố định.
Ngôi đền Palenque – một chứng tích của văn minh Maya còn sót lại.
Về toán học, người Maya đã phát triển khái niệm "số 0" vào năm 357, sớm hơn châu Âu khoảng gần 900 năm. Văn bản cổ cho thấy, những người Maya, có nhu cầu công việc cộng vào hàng trăm triệu và số ngày lớn đòi hỏi phải có phương cách chính xác để thực hiện chúng. Kết quả tính toán về thiên văn học theo một không gian và thời gian dài là cực kỳ chính xác, bản đồ về sự vận động của Mặt trăng và các hành tinh là ngang bằng hoặc vượt xa các nền văn minh khác quan sát vũ trụ bằng mắt thường. Họ cũng xác định chính xác độ dài của một năm gồm 365 ngày, thời gian Trái đất quay hết một vòng quanh Mặt trời, chính xác hơn rất nhiều lịch được châu Âu sử dụng vào thời đó (lịch Gregory).
Hay sự khởi đầu mới?

Năm 1957, nhà thiên văn học và Maya học Maud Worcester Makemson (Mỹ) đã viết: "Sự hoàn tất Chu kỳ thứ 13 mang một ý nghĩa vô cùng trọng đại đối với người Maya". Năm 1966, một nhà nghiên cứu về Maya khác, Michael D. Coe, cũng nhắc đến trong cuốn The Maya rằng, sự hủy diệt sẽ giáng xuống bất chợt cho những “con người trụy lạc” của thế giới này vào ngày cuối cùng của Chu kỳ lịch 13. Và dựa theo các nghiên cứu trên thì vũ trụ của chúng ta sẽ bị tiêu diệt trong năm 2012 này. Từ những niềm tin mãnh liệt vào một nền văn minh huyền bí cùng những học thuyết mông lung của nhiều chuyên gia, không ít người tin rằng, vào ngày 21/12/2012 định mệnh, ban ngày sẽ kết thúc, bóng đêm bao trùm Trái đất. Loài người không phải bị tiêu diệt mà bước vào một thời kỳ phát triển mới, trở nên khôn ngoan hơn. Song, kết thúc hay khởi đầu mới thì cũng là cơn ác mộng đối với những người đang sống  trên Trái đất hiện tại, dù rằng không có cơ sở khoa học nào chứng minh được tính “hủy diệt” của thời khắc này.
Rất nhiều nhà khoa học đã phản bác lại niềm tin quái gở này và khẳng định nó chỉ là hiệu ứng đám đông và hình thành bởi tác động tiêu cực từ giới truyền thông. Học giả về người Maya, Mark Van Stone khẳng định: "Không có bất kỳ điều gì trong lời tiên tri của người Maya, Aztec hay người Trung Mỹ cổ xưa cho rằng có một sự thay đổi bất ngờ hoặc trọng đại nào xảy ra trong năm 2012. Khái niệm về một “Đại Chu Kỳ” sắp kết thúc hoàn toàn là phát minh của người hiện đại". Năm 1990, hai học giả về Maya là Linda Schele và David Freidel đã rút ra kết luận, người Maya "chưa từng thai nghén bất kỳ ý nghĩ nào về ngày tận thế như nhiều người đã giả thuyết." Trong khi đó, một chuyên gia ở Bảo tàng nghệ thuật Châu Mỹ Latinh và khảo cổ học tại Florida (Mỹ) cho biết, họ không có bất kỳ một tài liệu nào cho thấy người Maya từng nghĩ về một ngày chấm dứt thế giới vào năm 2012.
Thế giới hiện đại mà chúng ta đang sống, nơi thông tin được chia sẻ gần như tức thì, chính là điều kiện thuận lợi nhất để những “niềm tin” vào một ngày diệt vong của loài người bỗng nhiên thành… có cơ sở, dù chẳng biết giải thích thế nào. Nhưng khôi hài ở chỗ, rất nhiều chuyên gia về khảo cổ, nhân chủng học đã tìm đến những nơi được cho là còn sót lại người Maya “gốc” để chứng thực lời tiên tri tận thế, thì kết quả hoàn toàn ngược lại!
Nhà khảo cổ học người Mexico Guillermo Bernal và một bô lão Maya Apolinario Chile Pixtun sống trên cao nguyên Guatemala cùng khẳng định, “Ngày tận thế” là sản phẩm sáng tạo của những người phương Tây giàu trí tưởng tượng mà thôi! Và loài người chúng ta, với trí tuệ siêu việt, đôi lúc cũng muốn bay bổng một chút. Vì thế mà xã hội càng thú vị !

Nhãn: , , , , , , , , ,

Thứ Tư, 25 tháng 1, 2012

Nổi gai ốc với những địa danh bí ẩn cực kinh dị

Những địa danh này có những truyền thuyết thật đáng sợ mà cho đến tận bây giờ người ta vẫn còn lưu truyền...
1. Đường hầm Gào Thét (Screaming), Canada

Truyền thuyết địa phương kể lại rằng, có 1 cô gái trẻ bị chết bên những bức tường của đường hầm sau khi thoát ra khỏi trang trại đang bị cháy. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều dị bản của truyền thuyết về đường hầm này. Có người kể rằng, cô gái bị chính người cha của mình thiêu sống trên ngọn lửa vì lý do không giành được quyền nuôi dưỡng cô sau khi ly hôn. Một câu chuyện khác thì là cô gái trẻ đã bị hãm hiếp cho đến chết, sau đó, hung thủ đã đốt xác cô để thủ tiêu chứng cứ... Và còn rất nhiều những câu chuyện khác xung quanh truyền thuyết về đường hầm này, tuy nhiên, tất cả đều có 1 điểm chung đó là về tiếng hét của cô gái trước khi chết, đó được cho là nguồn gốc của tên đường hầm... (Sreaming có nghĩa là gào thét).


Đường hầm Gào Thét (Screaming), Canada.


Ghê rợn quá !!! 

2. Cây cầu Bessie Little, Mỹ

Người ta nói rằng, hình ảnh của cô gái đã bị sát hại Bessie Little thường xuyên trở lại cây cầu này. Cô gái này đã bị giết vào ngày 27/8/1896 bởi chính bạn trai của mình là Albert J.FrantzBessie mang thai, tuy nhiên, Albert không muốn kết hôn với cô và anh ta đã dùng súng bắn vào đầu Bessie trên cây cầu này. Sau đó, người đàn ông này còn bố trí dàn cảnh như 1 vụ tự tử. Tuy nhiên, với 2 viên đạn ở đầu thì cảnh sát đã xác định Bessie không thể tự tử được và họ cũng đã tìm ra tên sát nhân độc ác. Ngày 19/11/1897, Albert J.Frantz đã bị tử hình bằng chiếc ghế điện tại 1 trại giam ở Ohio, Mỹ. Cây cầu đã được đổi thành tên cô gái và người ta nói rằng, những hình ảnh của cô vẫn còn đâu đó quanh đây.


Những bức ảnh xưa của cây cầu. 

3. Trường đại học Ohio, Mỹ

Tại đây có rất nhiều câu chuyện đáng sợ... Ngôi trường này nổi tiếng vì 1 cô gái đã tự tử sau khi dùng máu viết những điều kinh dị lên tường. Ngôi trường này có 5 nghĩa trang xung quanh tạo thành hình ngôi sao 5 cánh. Ở đây cũng có ngôi nhà của những cầu thủ bóng rổ, họ đã chết sau khi gặp 1 tai nạn khủng khiếp, đâu đó người ta vẫn nghe thấy tiếng bóng đập xuống đất...


Trường được thành lập từ năm 1804.


Xưa...


... và nay. 

4. Đường Kelly, Mỹ

Một khu vực của con đường dài 1 dặm Kelly tại Mỹ từ lâu được cho là có rất nhiều điều khác thường và kỳ lạ. Người ta nói rằng, khi các con vật, thậm chí con người đi vào con đường này đột nhiên sẽ trở nên bạo lực khác thường. Con đường nhỏ này bao quanh bởi bóng tối, sương mù dày và những lùm cây ghê rợn. Ở đây còn thường phát ra những tiếng động đáng sợ mà không thể biết giải thích đó là tiếng động gì... Có người cho rằng, đã có 1 lời nguyền nào đó tại con đường này.


1 phần ghê rợn của con đường. 

5. Nhà tù Alcatraz, Mỹ

Nhà tù này năm trên hòn đảo Alcatraz, San Francisco, nước Mỹ. Nơi đây đã chứng kiến rất nhiều vụ tai nạn, giết người và tự tử. Với lịch sử đen tối đó thì không khó hiểu khi ở đây có rất nhiều điều đáng sợ... Những câu chuyện kinh dị ở đây thậm chí có thể viết thành sách. Câu chuyện đáng sợ nhất đã được các du khách, cựu cai ngục, cựu tù nhân kể lại. Đó là tại đảo Alcatraz trước đây có 1 ngọn hải đăng được xây dựng vào năm 1854 và trong trận động đất lớn ở San Francisco năm 1906, nó đã bị phá huỷ hoàn toàn. Tuy nhiên, thi thoảng vẫn có người thấy nó đột nhiên xuất hiện lại kèm theo một tiếng huýt sáo và 1 ánh đèn chớp sáng màu xanh, làm công việc quen thuộc của nó đã từng làm trước khi bị đổ... Sau đó, ngọn hải đăng lại biến mất...


Hòn đảo Alcatraz.


Bên ngoài nhà tù.


Các phòng giam của nhà tù.

6. Lâu đài Edinburgh, Scotland

Lâu đài tráng lệ này có từ thời trung cổ, nó nằm trên 1 núi đá hiểm trở, tất cả tạo ra 1 khung cảnh tuyệt vời cho lâu đài. Nhưng khác với vẻ ngoài của nó, những gì bên trong thì vô cùng đáng sợ, các căn phòng trống rỗng, lối đi chật hẹp, đặc biệt nhiều người nói rằng, lâu đài này thường xuyên có những tiếng vọng của người chết từ khu phòng giam tù nhân của lâu đài... Xung quanh lâu đài này cũng có rất nhiều câu chuyện kinh dị như các hầm mộ được sử dụng để chôn những người bị dịch hạch, những con chó quái dị, 1 tay trống không đầu, các tù nhân chết trong chiến tranh...


Nằm trên ngọn núi cao.


Bề ngoài lộng lẫy... 

...nhưng ẩn chứa nhiều điều đáng sợ.

Nhãn: , , , , , ,