Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2011

Những cột đá kỳ bí ở cao nguyên Man-Pupu-Ner

Bảy cây cột này và cả cao nguyên Man-Pupu-Ner nằm trong Khu bảo tồn Pechoro – Ilych nằm ở phía đông nam nước cộng hòa Komi.

Những cột đá bị phong hoá ở cao nguyên Man-Pupu-Ner
Cao nguyên Man-Pupu-Ner nằm trong vùng đất Troitsk-Pechersk thuộc Komi, ngay ở lưu vực hai con sông Icholyaga và Pechora, là nơi sinh sống của người Mansi, Komi và người Nga. Trên cao nguyên này hiện nay có 7 cây cột đã bị phong hóa có chiều cao khác nhau từ 30 đến 42 mét.
Theo phán đoán của các nhà khoa học thì những cây cột này hình thành từ những khối phiến thạch dạng tinh thể. Sau thời gian khoảng 400 triệu năm, gió mưa bão tuyết đã phá hủy và bào mòn đất đá, để còn lại 7 cây cột như hiện nay. Người ta nói rằng khi đến gần có thể nghe thấy những âm thanh phát ra từ những cây cột đá, tựa như chúng đang trò chuyện với nhau.
Bảy cây cột này và cả cao nguyên Man-Pupu-Ner nằm trong Khu bảo tồn Pechoro – Ilych nằm ở phía đông nam nước cộng hòa Komi. Khu bảo tồn này nằm ở khoảng 62° đến 63° vĩ bắc, 57°30’ đến 60° kinh đông. Diện tích khu bảo tồn là 714300 ha.
Theo truyền thuyết của cư dân địa phương, những cây cột đá này vốn là thành viên trong một gia đình người khổng lồ Samoed (hay còn gọi là người Samođi – một dân tộc thiểu số vùng Nam Sibir). Họ định vượt đồi núi tới Sibir để tiêu diệt bộ tộc Vogul.
Song khi lên tới cao nguyên Man-Pupu-Ner và trông thấy đỉnh núi thiêng Yalping-ner (Ялпинг-нёр) của Vogul thì thầy mo dẫn đường (shaman) kinh sợ đến mức đánh rơi chiếc trống lục lạc xuống đỉnh núi phía nam (nay gọi là núi Trống – Koip theo tiếng địa phương), và ông ta cùng 6 người kia đều hóa đá vì sợ hãi.

Còn có một truyền thuyết khác của người Mansi về sự xuất hiện của những cột đá này: Có 6 người khổng lồ theo dõi một bộ tộc Mansi. Tới thượng nguồn sông Pechora thì họ gần như đã đuổi đến nới. Nhưng bỗng nhiên có một thầy mo mặt trắng như vôi xông ra chặn đường và biến 6 người khổng lồ kia thành đá. Kể từ đó thầy mo nào của người Mansi cũng phải tới vùng đất thiêng đó để luyện phép thuật.
Theo đánh giá của khách du lịch và những người có cơ hội chiêm ngưỡng kỳ quan này thì cho đến tận ngày nay đỉnh Man-Pupu-Ner vẫn gợi cho du khách ấn tượng choáng ngợp trước vẻ đẹp hùng vĩ và hoang sơ của thiên nhiên. Tuy ở Nga cũng còn vài nơi có những cây cột đá bị phong hóa, nhưng những cây cột ở cao nguyên Man-Pupu-Ner hoàn toàn là xứng đáng là kỳ quan ở độ lớn và vẻ đẹp độc đáo của nó trên cả vùng cao nguyên rộng lớn tương đối bằng phẳng, chỉ toàn rêu, cỏ và hoa dại.
Du khách thường thích tới vùng cao nguyên có 7 cột đá phong hóa này vào mùa hè. Tuy nhiên vào mùa đông kỳ quan cũng có vẻ đẹp riêng của nó, và đường đi tới địa điểm này có khi còn thuận lợi hơn do sông Pechora bị đóng băng.
Trong cuộc bình chọn “Bảy kỳ quan nước Nga” vừa kết thúc ngày 12/6 vừa qua, những cây cột đá bị phong hóa ở cao nguyên Man-Pupu-Ner là một trong số bảy kỳ quan được bầu chọn nhiều nhất
 Theo Giaoduc

Nhãn:

Thi thể của nhà sư 3 tuần không phân hủy

Rinpoche được chứng nhận y tế đã qua đời vào ngày 24/05 – tim ông đã ngừng đập và ông đã tắt thở. Thi thể của ông được đặt trên giường và được phủ bởi một tấm vải liệm trong điều kiện khô ráo và nhiệt độ tương đối thấp.

Thupten Rinpoche, một nhà sư Tây Tạng ở New Zealand, đã qua đời vào tháng 5/2011 nhưng theo báo cáo, thi thể của ông đã để được gần 3 tuần mà không thấy có dấu hiệu phân hủy rõ rệt nào, cũng không có biểu hiện cứng xác, và không bốc mùi.
Rinpoche bị ung thư dạ dày và đã được chứng nhận y tế là chết vào ngày 24/5 bởi một bác sĩ địa phương, người đã cho biết tim của Rinpoche ngừng đập và ông không còn thở. Thi thể của ông được đặt trên giường và phủ bởi một tấm vải liệm tại trung tâm Phật giáo Dhargyey trong điều kiện khô ráo và nhiệt độ tương đối thấp.
Theo cộng đồng Phật giáo địa phương, Rinpoche đã tiến vào một trạng thái “tử thiền” hay còn gọi là tukdam. Thi thể của Rinpoche sau đó đã được hỏa táng.
Peter Small, giám đốc của Trung Tâm Phật Giáo Dhargyey cho biết trên tờ Otago Daily Times: “Tôi nghĩ rằng ở New Zealand không có một ai khác có thể làm được điều này. Chỉ có một trường hợp tương tự trong cộng đồng của chúng tôi trước đây, khi giáo chủ của chúng tôi qua đời”.
Ông nói thêm: “Đây là một khoảng thời gian dài khác thường mà một Lạt ma ở trong trạng thái tử thiền”.
TVNZ đã ghi hình thi thể của Lạt ma 15 ngày sau khi ông chết và cho phép phóng viên John Hudson nhìn thấy thi thể của ông.Hudson cho biết nhiệt độ trong phòng là 13 độ C, và không có mùi hay dấu hiệu nào của sự phân hủy.
Giám đốc tang lễ đại phương, Michael Hope đã nói với TVNZ rằng khi người ta chết, sự phân hủy có thể xảy ra khá nhanh với những biểu hiện rõ ràng.
“Có thể có sự trương phồng, và bốc mùi”, ông nói. “Một số các đặc điểm trên khuôn mặt cũng có thể hơi thay đổi, mắt có thể thâm lại”.
Hope kể lại rằng đôi khi ông có nhìn thấy những thi thể một thời gian lâu sau khi chết có rất ít hoặc không hề có dấu hiệu phân hủy, ông giải thích rằng điều này có thể xảy ra do sự kết hợp của nhiều yếu tố.

Nhà nghiên cứu bệnh lý học – Tiến sĩ John Rutherford phát biểu với TVNZ rằng xác chết có thể được bảo quản tốt trong môi trường tương đối mát mẻ, khô ráo, và khi ruột gần như vắng bóng các vi sinh vật mà nếu có mặt thì chúng sẽ lan ra khắp cơ thể gây ra sự thối rữa.
(theo The Epoch Times)

Nhãn: , ,

Học sinh năm 1913 dự đoán chính xác về năm 2000

Một cậu bé 12 tuổi của năm 1913 đã viết ra một danh sách những dự đoán của mình về cuộc sống năm 2000. Thật đáng ngạc nhiên khi hầu hết những dự đoán của cậu đều chính xác.
Edgar Codling tới từ Hillington, Norfolk, Mỹ tin rằng khi chuyển giao sang thế kỉ mới, máy bay sẽ phổ biến như ô tô và giá một chiếc xe đạp sẽ rất rẻ. Codling cũng dự đoán về sự bùng nổ của du lịch giải trí cũng như sự tăng lên về số lượng các tờ báo.
 Bài luận của cậu bé Codling, 12 tuổi cách đây gần một thế kỉ dự đoán về cuộc sống vào năm 2000.
Vào năm 1913, chỉ một năm trước khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, Edgar đã viết trong một bài luận rằng: “Vào năm 2000 sau Công nguyên, xe đạp sẽ được bán với giá rất rẻ. Máy bay sẽ được nhìn thấy trên bầu trời và phổ biến như ô tô. Chúng sẽ được sử dụng cho việc kinh doanh cũng như giải trí. Báo cũng sẽ rất rẻ”.
 Codling năm 18 tuổi (trái) và khi đã ở tuổi 70 (phải)
Mặc dù dự đoán khá đúng về sự tiến bộ của công nghệ, nhưng cậu bé 12 tuổi của cách đây gần một thế kỉ không chắc chắn về vấn đề giải phóng phụ nữ. Cậu viết: “Có thể những phụ nữ đang đòi quyền đi bầu cử sẽ có được lá phiếu của mình, nhưng cũng có thể không”. Câu này được giáo viên đánh dấu bằng một chữ “Tốt” bằng mực đỏ. Nhưng không rõ đó là lời nhận xét cho cả bài viết, hay là sự đồng tình của giáo viên với sự hoài nghi này.
Bài luận xuất hiện trong một cuộc triển lãm phân tích biểu đồ phát triển của trường học trong 200 năm qua.
Ngô Nguyễn(Theo Dailymail)/bee

Nhãn: , , ,

Bí ẩn những lăng mộ đá Hiệp Hòa

Các triều đại phong kiến của Việt Nam đã để lại khá nhiều di sản kiến trúc có giá trị, trong đó có hệ thống lăng mộ làm bằng đá của các bậc quan lại. Hiện, ở huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang vẫn còn lại 26 khu lăng mộ thuộc loại này.
Hệ thống lăng đá cổ Hiệp Hòa đã sớm được công nhận là Di tích Văn hóa cấp Quốc gia, điển hình như lăng Dinh Hương, lăng họ Ngọ…

Tiền sảnh khu mộ võ quan thủy binh La Đoan Trực ở lăng Dinh Hương.

Lăng họ Ngọ (còn gọi là Linh Quang từ) được xây dựng vào năm Chính Hòa thứ 18 (1697) ở làng Thái Thọ, xã Thái Sơn, huyện Hiệp Hòa. Đây là nơi lưu giữ di hài Quận công Ngọ Công Quế, một võ quan nổi tiếng dưới triều vua Lê Hy Tông (1676 – 1705). Lăng được xây khi Quận công Ngọ Công Quế còn sống.
Lăng xây bằng loại đá muối và đá ong lấy từ núi Y Sơn, xã Hòa Sơn, cách đó khoảng 1,5km. Tổng diện tích khuôn viên khu lăng mộ đá khoảng 400 m2. Lăng hình chữ nhật, cửa hướng về phía Nam, phía trước có ao hình chữ nhật, bốn phía trước kia có tường xây bằng đá ong. Cổng dẫn vào lăng xây kiểu vòm cuốn. Hai bên cổng có 2 con chó đá. Qua cổng lăng, trên khu đất trước mộ phần, hai bên có 2 dãy tượng đá đứng chầu uy nghiêm.

Một trong hai con voi đá trong tư thế nằm phủ phục trước tiền sảnh mộ võ quan thủy binh La Đoan Trực.
Đặc biệt, trong lăng có đôi voi đá được tạc ở tư thế quỳ, vòi cuộn gập lên miệng trông rất đẹp. Ngoài ra, còn có đôi ngựa bằng đá có dáng cân đối, khỏe, đẹp. Đôi nghê đá trong tư thế đứng, râu cằm xoắn, đầu to, bờm ngắn. Đôi cá sấu đá miệng mở rộng để lộ viên ngọc lớn, thân, lưng và đuôi cùng 4 chân được chạm trổ công phu… điển hình cho nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc trang trí thời Lê-Mạc.
Rời lăng họ Ngọ, chúng tôi đến làng Dinh Hương, xã Đức Thắng, thị trấn Thắng, một địa danh nằm cách khu lăng họ Ngọ khoảng 1,5 km về hướng Tây Nam. Ở đó có quần thể khu lăng Dinh Hương bằng đá xanh rất hoành tráng được xây dựng vào năm 1729, tức dưới triều Lê Trung Hưng (1533 – 1788). Lăng Dinh Hương rộng khoảng 300m2, nằm trên một quả đồi thấp tròn, mặt ngoảnh về hướng Đông, xưa có tường đá ong bao quanh. Lăng Dinh Hương là nơi an nghỉ của vị võ quan thủy binh La Đoan Trực (1688-1749).

Tượng người và ngựa đá đứng chầu ở lăng họ Ngọ.
Quần thể lăng đá Dinh Hương chia làm 3 phần chính: Phần mộ táng ở giữa, phần thờ tự ở bên trái, phần bia ở bên phải. Lăng đá có hệ thống tượng người và thú vật tạc bằng đá xanh, kích thước lớn, hình khối mập, chắc, chạm tỉa công phu. Trong lăng có 2 bức tượng đá tạc hình hai vị võ tướng dắt ngựa đứng chầu đối diện nhau. Cặp tượng này được coi kiệt tác của nghệ thuật chạm khắc đá của người Việt xưa. Tượng võ quan đeo gươm dắt ngựa phía bên trái râu dài, mặt nhỏ; võ quan đeo gươm dắt ngựa phía bên phải mặt to, hàm rộng. Toàn bộ hình khối tượng được chạm khắc công phu làm toát nên vẻ đạo mạo, phi phàm.
Phía trước mộ phần có một khoảng sân rộng bằng gạch. Trên sân, ngoài cùng có đôi tượng voi bằng đá trong tư thế phủ phục trông hiền lành, thuần phục. Vào phía trong một chút, ngay hai bên hương án là hai con nghê đá trong tư thế ngồi, mặt ngửa lên trời cao. Toàn thân nghê đá là một lớp lông hình vảy rồng, đầu phủ bờm dài được chạm khắc tuyệt đẹp. Phía trong cùng, hai bên mộ phần có hai tượng nữ quan đứng hầu mang vóc dáng và dung mạo sống động như nguyên mẫu đời thường.



Phần mộ táng được xây bằng đá ong hình vuông.
Trải qua thời gian, những pho tượng đá ở các khu lăng mộ này vẫn còn khá nguyên vẹn và tuyệt đẹp như xưa, như minh chứng cho một thời kì vàng son của kĩ thuật điêu khắc đá của người Việt.
theo datviet




Nhãn:

Chứng kiến luân hồi

Dì tôi đã kể cho tôi nghe câu chuyện như sau. Dì và chồng dì, đôi vợ chồng già không có nguồn thu nhập nào để trang trải cuộc sống. Do đó họ đã mua hai con lợn ở ngoài chợ. Họ tính rằng khi đôi lợn này sinh ra lợn con, họ có thể bán lợn con ra chợ để kiếm tiền.

Vài năm sau, dì tôi có một giấc mơ. Trong mơ, có hai người nói với dì: “Chúng tôi sẽ rời đi sớm, ngay khi chúng tôi trả hết nợ cho bà”. Sau khi thức dậy, dì tôi vẫn còn băn khoăn: “Làm gì có ai nợ mình cái gì nhỉ, tại sao lại có người muốn trả thứ gì đó cho mình?”
Không lâu sau, mỗi chú lợn sinh ra một chú lợn con. Vài ngày sau, dì tôi lại mơ thấy hai người kia. Họ nói với dì: “Chúng tôi đi đây. Chúng tôi đã trả hết nợ rồi nhé.” Dì tôi nói: “Được rồi”.
Ngày hôm sau, hai chú lợn ngừng ăn uống, như thể chúng bị ốm vậy. Cả hai chú lợn đều chết đêm hôm đó. Đến khi ấy, dì tôi mới nhận ra rằng hai người kia đã chuyển sinh thành lợn trong đời này để trả nợ mà họ thiếu vợ chồng dì trong kiếp trước. Dì nghĩ: “Ngay cả nếu các ngươi đã trả nợ ta, ta sẽ vẫn bán các ngươi để lấy tiền.”
Dì và chồng dì bèn lột da hai con lợn, chất chúng lên một chiếc xe ba bánh và chở lên thị trấn để bán thịt. Bởi vì hai con lợn đã chết vì bệnh, dì không dám bán chúng trong thành phố vì sợ Cục Quản lý Chăn nuôi sẽ bắt họ. Nhưng họ vẫn bị kiểm tra tại thị trấn. Nhân viên công tác nói với dì: “Xin hãy dừng ngay việc bán thịt lợn độc. Tôi sẽ không phạt bà bởi vì bà đã nhiều tuổi rồi. Tốt hơn là bà nên chở chúng về và chôn chúng.”
Dì cùng ông chồng già đã trở về và chôn hai chú lợn. Vừa chôn, dì vừa lẩm nhẩm: “Ông xem, nợ đã được trả rồi. Tôi sẽ không nhận thêm một xu nào nữa.”
Dịch từ: http://www.minghui.org/mh/articles/2005/9/21/110869.html

Nhãn: , , ,

Thứ Tư, 28 tháng 9, 2011

UFO tái xuất hiện trên bầu trời của Trung Quốc

Tối 26/9, UFO tái xuất hiện ở Trung Quốc với sự chứng kiến của nhiều cư dân ở các thành phố Ô Hải, Ngạc Nhĩ Đô Tư, Lâm Hà thuộc khu tự trị Nội Mông Cổ, Ngô Trung, Thạch Chủy thuộc tỉnh Ninh Hạ, Du Lâm thuộc tỉnh Thiểm Tây…
UFO xuất hiện ở Trung Quốc tối 26/9. (Nguồn: Internet)
Theo các nhân chứng, UFO xuất hiện trên bầu trời khoảng 10 phút, sau đó bay từ hướng Đông sang hướng Tây, giữa đường dừng lại lượn vòng và phụt ra khói mầu.
Nghiên cứu viên Vương Tư Triều thuộc Đài thiên văn núi Tử Kim của Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc cho biết sau lần xuất hiện vào ngày 20/8, UFO xuất hiện tối 26/9 là sự kiện UFO quan trọng vì nó đáp ứng được cả hai điều kiện là có ảnh hưởng lớn với rất nhiều người chứng kiến cùng một lúc và rất khó dung tri thức hiện có của nhân loại để giải thích về nó.
Sự kiện này khiến ông Vương Tư Triều nhớ tới việc UFO xuất hiện cũng đúng vào ngày 26/9 của 40 năm trước.
Đó là vào chập tối ngày 26/9/1971, rất nhiều người ở khu vực phía bắc và phía nam thành phố Dương Châu, tỉnh Giang Tô nhìn thấy một vật thể phát sáng, lặng như tờ treo lửng lơ trên không trung như thách thức trí tuệ của con người.
Đúng lúc này, tại khu vực phía Tây thôn Hoàng, huyện Đại Hưng, thành phố Bắc Kinh cũng xuất hiện một vòng tròn ánh sáng treo trên không trung, không có tiếng động.
Không chỉ có ông Vương Tư Triều tận mắt nhìn thấy nó trong 5 phút, mà cơ hội còn đến với cả nhiều người ở Hồ Bắc và An Huy./.
(Vietnam+)

Nhãn: , , , , ,

Thế Giới Khi Xưa- Lời Nói Đầu

Tác giả: Ruth Montgomery Coward, Mc Cann Geoghegan, Inc. 200 Madison Ave, New York, NY. 10016
Tác-giả là một phóng viên báo chí, vốn không tin những sự huyền bí. Nhưng trong nhiều năm, bà đã được chứng kiến nhiều sự kỳ lạ xảy đến cho những người thân và bạn bè, báo trước những việc sắp tới, hoặc báo tin đúng lúc việc xảy ra tại nơi khác rất xa, có khi phải vài ngày sau mới được tin theo lối thông thường. Bà cũng đã tiếp xúc với nhiều con đồng (medium), dự nhiều phiên gọi hồn và viết tự động mà ta gọi là cầu cơ. Con đồng là người có khả năng tiếp xúc với người sống qua miệng hoặc tay của họ. Chính tác-giả cũng có khả năng đánh máy tự động, là để cho một linh hồn mượn tay của mình đánh máy ra những điều muốn nói.
Bà là một trong nhiều nhà học giả khảo cứu về thế giới vô hình. Nhờ những điều hỏi được các linh hồn, bà đã viết ra một số sách, như: A Search for the Truth (Tìm Sự Thật), A Gift of Prophecy: Jeane Dixon (Nhà Tiên Tri Jeane Dixon), Here and Hereafter (Ðây và Sau Ðây), A World Beyond (Thế Giới Bên Kia) và cuốn này.
Cuốn Thế Giới Khi Xưa này cũng được viết ra bằng những tài liệu do những linh hồn cao siêu mà tác giả gọi là Dẫn-đạo-sư (spirit guides) đã đánh máy ra qua bàn tay của bà. Dẫn-đạo-sư kể lại sự tích từ khi khai thiên lập địa, nghĩa là từ khi trái đất mới thành hình, rồi bắt đầu có loài người, những sự phấn đấu của những người thái cổ (homo-sapiens) với thiên nhiên và với những giống vật khổng lồ đời tiền sử.

 
Người homo-sapiens
 Khi Dẫn-đạo-sư nói đến những điều khó tin như cây cối rậm rạp vùng nhiệt đới tại nơi ngày nay băng giá quanh năm, tác giả đã tham khảo và tìm thấy những tài liệu khoa học trong tập Bách-Khoa Toàn Thư Encyclopedia Britannica) và vài cuốn khác, nói đến những vết tích cây cối và động vật bị chết cứng đột ngột dưới lớp băng đá rất dày trong những trận thiên tai đời thượng cổ. Khi Dẫn-đạo-sư nói đến lục địa trên vùng đại dương ngày nay, hoặc nói đến biển cả ở nơi đất liền hiện tại, tác giả cũng tìm được tài liệu khoa học chứng minh sự biến đổi đó.
Dẫn-đạo-sư nói rằng loài người bắt đầu sinh ra trên trái đất cách đây từ 5 đến 7 triệu năm. Người Bắc Kinh (là bộ xương cổ xưa tìm thấy tại vùng Bắc Kinh) được coi là bộ xương người xưa nhất mà các nhà bác học ước đã được 500 ngàn năm. Nhưng khi cuốn sách này sắp được xuất bản (1976) tác giả được biết các nhà khảo cổ đã tìm thấy tại miền đông Phi Châu, những xương bàn tay người ba triệu năm trước và xương sọ người một triệu rưỡi năm trước. Bác-sĩ Donald Johnson nói rằng sự xem xét hơn ba chục xương bàn tay và cổ tay rải rác trên một sườn đồi cho thấy rằng bàn tay có thể cử động như bàn tay người thời nay, chứ không như bàn tay của hai loài đười-ươi (gorilla và chimpanzee) là loài khỉ gần giống người hơn cả, hai loài này vẫn phải chống tay xuống đất để đi. Ðiều nhận xét này loại bỏ thuyết của khoa học cho rằng người và khỉ cùng chung một thủy tổ.
Bác sĩ Duane Gish cũng tìm thấy tại một lòng sông vùng Texas có vết chân người in vào đá gần vết chân khủng long.(có lẽ xưa là đất, lâu ngày đất ấy trở thành đá).  [Khủng long (dinosaur) là một loài vật khổng lồ thời tiền sử, thuộc loài thằn lằn, có khi dài đến 30 thước (100 ft) cao hơn 5 thước (18 ft), thường chân sau rất lớn, chân trước rất nhỏ, đuôi lớn và dài, cổ ngắn đầu to, hoặc cổ dài đầu nhỏ.]
Ðiều này chứng tỏ loài người đã có sớm hơn là người ta tưởng, vì các khoa học gia vẫn cho rằng khủng long đã tuyệt chủng nhiều ngàn năm trước khi có người. Những người thái-cổ đã phải phấn đấu kinh khủng với những vật khổng lồ trong nhiều triệu năm sống chung với chúng.

Khủng long
 Trong cuốn này, các dẫn-đạo-sư nói đến ba thiên tai, một trong đó là nạn trái đất đổi trục đã khiến cho vùng đại-lục Lemuria chìm xuống dưới Thái Bình Dương, đồng thời loài khủng long bị tuyệt chủng. Tác giả nghi ngờ rằng sao trái đất còn tồn tại được qua một tai nạn lớn lao nhường ấy, nhưng sau được biết các khoa-học-gia hiện đại đã nói Bắc-cực và Nam-cực đã có nhiều lần thay đổi vị trí trong thời gian ngàn triệu năm qua.
Dẫn-đạo-sư cũng đồng ý với Edgar Cayee {Edgar Cayee là một người Mỹ, làm nghề chụp hình, nhưng có khả năng tự thôi miên. Khi ông thức tỉnh chỉ là một người thường, không hiểu biết gì hơn người khác, nhưng khi ngủ thôi miên, ông rất sáng suốt, có thể:
- Nói rõ nguyên nhân bí hiểm bệnh tật của một bệnh nhân và cách chữa, trong khi các bác sĩ đều chịu bó tay.
- Nói ra những hành vi qúa khứ của một người trong những đời trước, đã đưa đến hậu quả là những khổ nạn mà người ấy phải chịu ngày nay.
- Nói về những biến cố lớn trong quá khứ và tương lai.

 
Edgar Cayee(1877–1945)
 Ông đã qua đời vào khoảng 1945, thọ hơn 70 tuổi. Ông còn để lại hơn 30 ngàn hồ sơ về các buổi thôi miên của ông.} rằng gần cuối thế kỷ này sẽ có một lần trái đất đổi trục nữa, nhưng lần này có điều đáng mừng hơn là đáng sợ, vì tai nạn ấy sẽ đem lại một nền hòa bình, bởi lẽ nhân loại sẽ có quá nhiều vấn đề kiến thiết phải lo, không còn đầu óc nghĩ tới tham vọng đất đai của kẻ khác.
(còn tiếp…)
Trích cuốn “Thế giới khi xưa”
Ghi chú: Trong những bài trích từ cuốn sách “Thế giới khi xưa”, Tiên Tri sẽ đưa thêm các hình ảnh minh họa cho bài viết nhưng vẫn tôn trọng nội dung của tác giả; Tiên Tri sẽ không  sửa bât kì từ ngữ nào.


Nhãn: ,

Thứ Ba, 27 tháng 9, 2011

Lời Nguyền Của Người Tử Tội

Năm 1821, tại thị xã Newtown Montgomeryshire thuộc xứ Walest, có một người đàn ông tên là John Newton mang tội giết người và được đưa ra trước tòa để thẩm phán. Ðứng trước quan tòa ông ta khẳng định tuyên bố rằng ông là người vô tội, nhưng dựa vào những chứng cớ của hai người mà ông ta nói rằng họ sẽ được lợi ích nếu ông chết đi, cho nên những lời ông nói đều vô hiệu. Cuối cùng ông ta bị kết án và xử tử treo cổ.
Nhìn thẳng vào quan tòa với ánh mắt nẩy lửa, Newton thét lớn:
-    TÔI VÔ TỘI! TÔI LÀ NGƯỜI VÔ TỘI! ÐỂ CHỨNG MINH ÐIỀU ÐÓ, TÔI SẼ KHÔNG CHO NGỌN CỎ XANH TƯƠI NÀO MỌC TRÊN MỒ CỦA TÔI. MÃI MÃI KHÔNG CÓ NGỌN CỎ TƯƠI XANH NÀO MỌC TRÊN NGÔI MỒ CỦA TÔIIIII!
Vài ngày sau, John Newton đã bị treo cổ công khai trước quần chúng.  Thật là kỳ lạ khi lễ xử tội bắt đầu thì bỗng đâu một cơn bão kéo tới sấm sét vang rền làm những người có mặt tại hiện trường đều ngạc nhiên và lo sợ…

Sau khi ông Newton chết, xác của ông được chôn trên mảnh đất sau một thánh đường thuộc vùng ngoại ô thành phố.
Khu nghĩa địa này là một mảnh đất xanh tươi với những ngọn cỏ được bón phân cắt tỉa mỗi tuần với những mộ bia nằm từng hàng thẳng tắp trong thật đẹp mắt, nhưng từ khi xác của John Newton được chôn ở đây thì miếng đất này không được hoàn mỹ giống như xưa. Ấy là vì giữa một tấm thảm cỏ xanh mướt lại có một khoảng đất hình chữ nhật trơ trọi mọc một loại cỏ dại bò chung quanh theo khuôn khổ của chiếc quan tài nằm bên dưới.
Mỗi ngày những dân cư đi qua đều có thể trông thấy ngôi mộ của Newton vì thế mặc cảm tội lỗi và nỗi đau buồn về một kẻ bị giết oan càng ngày càng tăng dần trong khu thị xã nhỏ này. Ðể xóa đi những cảm giác ấy, chính quyền địa phương đã nghĩ ra một cách nếu cỏ không tự mọc trên ngôi mộ này được thì họ có thể trồng cỏ lên trên đó. Họ đem những thứ đất tốt đổ lên ngôi mộ trải ra cho đều, sau đó họ rải những hạt cỏ lên rồi tưới nước rất cẩn thận. Nhưng nhiều ngày trôi qua không một hạt cỏ nào nẩy mầm.
Và vài tháng sau người ta lại tìm đủ mọi cách để trồng cỏ, cứ như vậy người ta lại trồng cỏ bón phân tưới nước nhưng trải qua nhiều năm một cọng cỏ xanh tươi cũng không thể mọc được trên nấm mồ của người đàn ông Welsh này.
Vào năm 1852 một vị giáo sĩ tên là Robert Mostyn Price đã đứng lên biện hộ cho người đàn ông bị treo cổ.
Ông ta viết:
Ðã ba năm trôi qua mà chúng ta không thể trồng cỏ  trên nấm mồ này cho dù chúng ta đã dùng đủ mọi cách, đủ mọi phương pháp nhưng một cọng cỏ cũng không thể mọc lên. Vì vậy tôi cùng nhiều người khác  tin rằng đây là sự chứng minh “vô tội” của người đàn ông đáng thương.”
Nhưng khó có thể làm cho người ta chấp nhận được sự thật rằng quan tòa đã xử án sai lầm để một người đàn ông vô tội phải chết. Cho nên một lần nữa họ lại gắng sức làm cho cỏ mọc trên ngôi mồ của Newton bằng cách đổ lên đó một thứ đất phân thật tốt, rồi cấy những cây cỏ xanh tươi dễ trồng nhất rồi tưới nước và chăm sóc rất kỹ lưỡng.
Mọi người hồi hộp chờ đợi. Cuối cùng thì người ta cũng thấy được những cây cỏ mới cấy bắt đầu trổ lá non; lúc đó ai cũng hớn hở vì cỏ đã mọc được trên nấm mồ Newton rồi như vậy họ sẽ không còn cảm thấy mặc cảm tội lỗi bao trùm trong bầu không khí chung quanh đây nữa. Nhưng tiếc thay chỉ qua một đêm, những loại cỏ dại đã bò lên dầy đặc nuốt chửng mất những cây cỏ xanh tươi vừa mới bắt đầu trổ lá non. Không biết tại sao loại cỏ này lại mọc nhanh như thế? Mọi người không ai có thể hiểu nổi có lẽ chỉ có linh hồn người quá cố nằm bên dưới quan tài mới biết được.
Cũng từ đó không ai màng đến việc trồng cỏ lên ngôi mộ của ông Newton nữa vì họ biết rằng cho dù có trồng thì cũng vô dụng… vì vậy mảnh đất nhỏ xấu xí này tiếp tục đứng vững trong vùng đất xanh mướt màu cỏ non …
Cho đến thế kỷ sau, năm 1941, một người đến viếng khu nghĩa địa này vẫn có thể chỉ đúng ngay ngôi mồ của Newton, một mảnh đất có nhiều cỏ dại bò ngổn ngang theo khuôn của chiếc quan tài vẫn còn nằm giữa mảnh đất xanh tươi đẹp đẽ, đó là chứng cớ thầm lặng về sự phán xét sai lầm của tòa án với lời nguyền của người đàn ông nước Wales.
_________________
(1) Wales là một nước nhỏ nằm cạnh bên nước Anh về hướng tây.
*  Trích từ quyển “Murder Will Out” do nhà sách Sterling Co. ấn hành.  Tamlinh dịch thuật.
(theo tamlinh)

Nhãn: , , , ,

“Hào quang” của cơ thể sống chính là “hồn”

Trên 3 số báo liên tiếp (từ số 112 – 114), KH&ĐS đã đăng loạt bài tìm hiểu về việc có hay không có linh hồn dưới góc nhìn khoa học. Sau đó, chúng tôi đã nhận được một số bài viết cộng tác về vấn đề này. Chúng tôi xin tiếp tục đăng tải để bạn đọc có cái nhìn đầy đủ hơn về linh hồn.

4/7 phần của cơ thể thuộc về linh hồn
GS.TSKH Đoàn Xuân Mượu, nguyên viện trưởng Viện Văcxin, tác giả cuốn sách “Khoa học và vấn đề tâm linh” khẳng định, linh hồn là bất tử và tồn tại sau khi chúng ta chết. Dựa trên các quan điểm của triết học Đông Tây, kết hợp với các bí truyền cổ đại, những trải nghiệm bất khả trị của các tôn giáo, tín ngưỡng thế giới… đã khẳng định cấu tạo con người gồm 7 phần gồm: Thể xác, năng lượng, cảm xúc và 4 cơ thể tâm thần. Trong đó, chỉ có thể xác là hữu hình. 6 phần còn lại là năng lượng không đặc như thể xác. Phần nữa loãng hơn là năng lượng về linh cảm, đây là những cái xếp vào năng lượng chưa phải tế vi.
Thân thể tế vi gồm: Ngoại cảm, nhân quả, trí tuệ (tài năng di truyền), linh hồn là 4 phần thuộc về vật chất mịn. Vía, linh hồn, chức năng linh cảm… là những phần sau khi chết vẫn còn, chỉ chết phần xác. Phần kia còn mãi và giữ được nhân cách của con người – linh hồn.
 

Theo GS.TS Phan Anh, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng Con người, khoa học ngày càng phát triển, với nhiều phát minh quan trọng cho phép con người có thể hiểu biết về thế giới xung quanh nhiều hơn và do đó nhiều cái từ “vô hình” đã trở thành hữu hình. Chẳng hạn, cách đây trên 70 năm, các nhà khoa học đã đưa ra giả thiết về sự tồn tại của vật chất tối, chiếm 90% trong vũ trụ nhưng người ta không thấy và nắm bắt được bằng các khí cụ khoa học và người ta coi nó là “bóng ma vũ trụ”.
Gần đây, sự kiện Bullet Cluster – sự đụng độ giữa hai thiên hà – người ta đã quan sát được và có bằng chứng về sự tồn tại của “vật chất tối” và “vật chất tối” dần sáng tỏ trong thế giới vô hình. Có những cái chúng ta chưa nắm bắt được thì nó vô hình và đến lúc nắm bắt được sẽ trở thành hữu hình. Tương tự, mỗi con người có thể coi là một tiểu vũ trụ, trong đó có phần hữu hình và phần vô hình. Những gì chúng ta thấy được rõ ràng thì là hữu hình, còn những gì chỉ mới cảm nhận hoặc phỏng đoán, suy luận dựa trên một số quan sát gián tiếp vẫn thuộc “vô hình”.
Hào quang trên ngôi mộ!
Cũng theo GS.TS Phan Anh, giám đốc Trung tâm nghiên cứu Tiềm năng con người, khi dùng một loại máy chụp ảnh đặc biệt, trong một số điều kiện nào đó, người ta chụp được con người với những vùng hào quang xung quanh. Đó là những quầng sáng nhiều màu sắc bao bọc xung quanh cơ thể. Một số quan sát về hào quang của những bệnh nhân ở phút cuối đời cho thấy, lúc này hào quang dần tách khỏi cơ thể và thoát ra ngoài khi người bệnh đã ngưng thở. Sau 49 ngày, người ta lại thấy hào quang trở lại trên ngôi mộ và sau đó rời đi luôn. Như vậy, hào quang quan sát được không phải là thứ ánh sáng phát ra từ vật chất mà nó là một phần tồn tại cùng vật chất, là phần vô hình tồn tại song song với hữu hình.
Hào quang chứa đựng những thông tin gì và cùng với hào quang, còn có năng lượng vô hình nào tồn tại song song nữa? Nó có liên quan gì đến vật chất tối, năng lượng tối hay không… cho đến nay con người chưa biết hết. Nhưng qua quan sát, đúc kết và trải nghiệm thực tế cho thấy, năng lượng siêu hình chứa đựng các thông tin về con người vẫn tồn tại, vận động, chuyển hóa và có thể có tác động qua lại lên thế giới hữu hình. Có cơ sở để suy luận rằng, “hào quang” của cơ thể sống chính là “hồn”, còn khi cơ thể sống không tồn tại nữa thì hào quang tách ra cùng với một phần năng lượng siêu hình thành phần vô hình thuộc về “tiểu vũ trụ”.
4.800 bức thư chứng minh sự tồn tại của linh hồn
GS.TS Đoàn Xuân Mượu cho biết, chứng minh sự tồn tại của linh hồn có rất nhiều nghiên cứu có cơ sở vững chắc. Đặc biệt, cuối thế kỷ XIX, BS Camille Flammarion, người Pháp đã bỏ ra 60 năm để nghiên cứu xem sau khi chết con người có còn lại gì không? Khi nghiên cứu ông đã không dùng phương pháp siêu hình như các nhà khoa học khác mà dùng phương pháp thực chứng của khoa học chính thống để nghiên cứu.
Ông thu thập chứng cứ từ khắp các địa phương trong nước Pháp và từ nhiều nước trên thế giới. Các thông tin được chuyển tải trong 4.800 bức thư từ những nguồn đáng tin cậy và được kiểm chứng chặt chẽ. Các bức thư này nói lên tính đa dạng sự xuất hiện linh hồn của người quá cố bởi chính những người thân và bạn bè của họ.
Từ 4.800 bức thư nhận được, BS Camille Flammarion nhận xét, những người đã chết tiếp tục sự tồn tại sau cái chết của thể xác. Họ tồn tại ở dạng vô hình mà ta không thể sờ, không thể thấy bằng mắt trong điều kiện bình thường. Sự tồn tại của họ hoàn toàn khác của chúng ta. Đôi khi họ tác động lên tâm thức của chúng ta và qua đó ta cảm nhận được sự hiện hữu của họ. Chúng ta thấy họ như khi họ còn sống, từ cách ăn mặc, cử chỉ, giao tiếp. Đó là sự giao lưu giữa linh hồn người chết và linh hồn người sống. Đây không phải là hoang tưởng mà là hiện thực. Từ linh hồn phát ra những sóng nhẹ, khi tiếp cận với người sống có sóng cùng tần số thì tạo ra hình ảnh trong não bộ của người sống, khi ấy linh hồn vô hình, trở lên hữu hình.
Theo Báo  Khoahoc&Đờisống

Nhãn: , , , , ,

Thứ Hai, 26 tháng 9, 2011

Bùa chú trên kim tự tháp “thiêng” như thế nào?

 Mặc dù Kim tự tháp Ai Cập qua những tháng năm lịch sử kéo dài 4.000 năm vẫn bao trùm một bức màn bí ẩn, tràn đầy những sắc thái thần bí.
Trong đó những lời bùa chú trên bia mộ là khiến người ta kinh hãi nhất: “Bất cứ người nào đến quấy nhiễu sự yên ổn của Pharaoh, thì cánh cửa tử thần sẽ giáng xuống đầu người đó”. Những lời bùa chú tựa như thần thoại đó, đã cảnh cáo trước cho những kẻ tham lam đời sau muốn nhòm ngó những báu vật vô giá trong mộ, đề phòng việc đào trộm mộ.
Lạ thay, mấy thể kỷ nay, phàm những người dám cả gan đi vào trong hầm mộ Pharaoh, dù là kẻ trộm mộ, người mạo hiểm hay là các nhà khoa học, các nhân viên khảo sát, cuối cùng đều ứng nghiệm lời bùa chú, nếu không phải chết ngay tại chỗ thì cũng mắc phải chứng bệnh lạ không chữa được rồi chết trong đau đớn khổ cực.
 
Những cái chết bí ẩn xảy ra khi liên quan đến Kim tự tháp
Minh chứng là vào tháng 11/1922, nhà khảo cổ nổi tiếng nước Anh, ông Hovander carter, sau 7 năm thăm dò tìm kiếm đã phát hiện và mở cửa lăng mộ Pharaoh Tutankhamun tại vùng thung lũng Đế vương. Ông đã cho người đào được hơn 5.000 hiện vật gồm có châu báu, đồ trang sức, quần áo, binh khí, công nghệ phẩm, dụng cụ gia đình,… Thành công đó đã làm chấn động thế giới.
Nhưng vào ngày 18 tháng 2 năm sau, khi công việc khai quật đang đứng trước thắng lợi, huân tước Canaphen, người đã đầu tư rất nhiều tiền của giúp Carter tiến hành công việc, đi vào trong hầm mộ thì bỗng nhiên sau đó mắc bệnh nặng, rồi qua đời. Chị gái của ông ta, trong hồi ký đã viết rằng: “Trước lúc chết, ông bị sốt cao và luôn miệng kêu gào: Tôi đã nghe tiếng thở của nó, tôi phải cùng đi với nó đây!”.
Cách đó không lâu sau, một nhà khảo cổ khác, ngài Môsơ trong khi khai quật đã giúp đẩy đổ bức tường đá chủ yếu trên đường vào hầm mộ cũng qua đời vì mắc phải một chứng bệnh lạ giống như thần kinh rối loạn.
Đaoglat – một chuyên gia chiếu chụp X quang cho xác ướp Pharaoh, không bao lâu cũng trở thành vật hy sinh cho các lăng mộ Pharaoh, ông ta ngày càng suy nhược và qua đời.
Trong 2 năm sau khi khai quật lăng mộ đó, có tới 22 người trong đội khai quật chết một cách bí ẩn, không rõ nguyên nhân. Từ đó tin tức về việc Pharaoh làm chết người lan truyền khắp nơi. Lời bùa chú trên bia mộ càng khiến người tin là có thật và số khác lại phân vân không biết có đúng không.
Năm 1924, nhà sinh vật học người Ai Cập quốc tịch Anh có tên gọi Oaitơ đã đưa theo một số người hiếu kỳ đi vào hầm mộ. Điều khiến người ta khiếp sợ là, sau khi vào tham quan về, ông ta liền treo cổ tự tử. Trước lúc chết, ông cắn đầu ngón tay lấy máu viết thư để lại nói rằng cái chết của ông ta là do bùa chú của lăng mộ Pharaoh tạo ra và vì bản thân rất hối hận nên ông phải ôm lòng ân hận ấy đi gặp thượng đế.
Điều khiến người ta kinh ngạc và khó hiểu hơn nữa là cái chết của giám đốc nhà bảo tàng Cairo, ông Khamin, Maihơlairơ. Xưa nay Khamin không hề tin lời bùa chú của lăng mộ Pharaoh lại có thể linh nghiệm. Ông ta nói: “Cả đời tôi đã từng nhiều năm giao thiệp với xác ướp và lăng mộ cổ Ai Cập. Chẳng phải tôi vẫn đang sống mạnh khỏe đấy ư?”. Thế nhưng sau khi nói lời đó chưa đầy 4 tuần, ông bỗng nhiên mắc bệnh và qua đời. Lúc đó ông ta còn chưa đầy 52 tuổi. Hơn nữa người ta còn phát hiện ra rằng, cùng ngày ông qua đời, trước lúc chết, ông vẫn chỉ huy một đội công nhân đóng gói một lô hiện vật quý giá, mà lô hiện vật đó được khai quật và thu lượm từ lăng mộ Pharaoh Tutancamông. Tất cả những điều đó khiến cho truyền kỳ về Pharaoh càng được phủ thêm bức màn đen bí ẩn.
Lúc bấy giờ, người ta đặt ra câu hỏi: Những người tiếp xúc với Kim tự tháp Pharaoh Ai Cập bị chết vì nguyên nhân gì? Những lời bùa chú trên bia mộ Pharaoh có thật linh nghiệm không?
Theo một nhà khoa học giải thích cho rằng, trên vách những lối đi trong hầm mộ có một lớp những thứ màu phớt hồng và màu lục xám có khả năng là lớp sinh ra tia sáng chết bởi nó phóng ra những chất làm chết người.

Nhiều lời giải thích đã được đặt ra nhưng chưa có giải thích nào được công nhận
Một số nhà khoa học khác lại có quan điểm khác, cho rằng, nền văn minh của người Ai Cập cổ đại đã đạt tới trình độ có thể dùng những côn trùng có nọc độc cực mạnh hoặc những chất kịch độc làm vũ khí để bảo vệ lăng mộ của những người thống trị, tránh bị kẻ khác xâm phạm. Bởi năm 1956, nhà địa lý học Oaitơxơ, trong lúc khai quật lăng mộ Rôcalibi đã từng bị dơi tập kích.
Những năm gần đây, một số nhà khoa học lại dùng sinh vật học để giải thích. Chẳng hạn như Yxơđinhao – một tiến sĩ sinh vật học, giáo sư y học của đại học Cairo, đã nói rằng: Căn cứ theo kết quả mà ông định kỳ tiến hành thí nghiệm đối với các nhà khảo cổ và các nhân viên, phát hiện thấy tất cả mọi người, trên cơ thể đều tồn tại một mầm bệnh độc có thể dẫn đến sốt cao và cảm nhiễm ở đường hô hấp. Những người đã vào hầm mộ, vì nhiễm phải bệnh độc này sẽ dẫn đến viêm đường hô hấp, rồi cuối cùng sẽ dẫn đến tắc thở mà chết.

Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là tại sao những mầm bệnh độc này có thể có được sức sống bền bỉ và mãnh liệt đến như vậy. Nó lại sống lâu tới 4.000 năm trong xác ướp nên các nhà khoa học không thể giải thích nổi.
Năm 1983 một nữ bác sĩ người Pháp tên là Phihirô, sau nhiều năm nghiên cứu đã nhận thấy nguyên nhân cái chết đó là do phản ứng quá nhạy cảm đối với những vi khuẩn độc hại của những người khai quật và những người tham quan hầm mộ. Theo nghiên cứu của bà thì bệnh trạng của những người đó cơ bản giống nhau, bị cảm nhiễm ở phổi, khó thở mà chết. Bà giải thích: Sau khi các Pharaoh cổ Ai Cập đã chết, người ta chôn theo những vàng bạc châu báu, áo quần; ngoài ra còn có rất nhiều rau quả và thực phẩm. Nhưng rau quả và thực phẩm đó, qua thời gian dài hàng ngàn năm thối rữa sinh ra những loài khuẩn độc mà mắt thường không thể nhìn thấy được.
Những khuẩn đó bám trong hầm mộ. Bất kể là ai khi thở hít phải những khuẩn độc đó, phổi sẽ mắc bệnh cấp tính, cuối cùng dẫn đế khó thở và chết trong đau khổ.
Tuy nhiên, lời giải thích đó vẫn chưa được cho là xác đáng nhất nên bí ẩn về những lời bùa chú ở bia mộ Pharaoh vẫn chưa ai tìm ra lời giải và lời giải đó xem ra không hề đơn giản, ít nhất là cho tới thời điểm bây giờ.
 Theo Khoahoc

Nhãn: , ,

Minh chứng luân hồi : chuyện đời trước và đời này

Luân hồi thực sự là chuyện có thật. Khi thúc phụ của Hằng Lan Đài tiên sinh mới được mấy tuổi, ông đã nói kiếp trước ông từng là một tăng nhân ở chùa Vạn Thọ tại Thành Tây. Tuy chưa bao giờ đến đó, ông có thể cầm bút vẽ lại đại thể đường vào và điện đường của ngôi chùa.
Ông thậm chí còn mô tả được cách bài trí trang nghiêm và phong cảnh xung quanh ngôi chùa như thế nào. Có người đã đi tới chùa Vạn Thọ để kiểm nghiệm và kết quả thấy toàn bộ là trùng khớp. Điều kỳ lạ là cả đời thúc phụ của Hằng Lan Đài tiên sinh chưa từng tới chùa Vạn Tự. Điều này chứng minh rằng luân hồi là thực sự tồn tại.

Chu Hy, nhà lý học nổi tiếng triều Tống cho rằng luân hồi tuy có nhưng chỉ là do sinh khí chưa tận của người chết ngẫu nhiên kết hợp với lực sinh mệnh mà thành. Cách nói này cũng có ví dụ thực tế. Ngày xưa tại Thôi Trang, có một hộ tá điền tên là Thương Long có con trai chết yểu từ thời niên thiếu; sau khi chết, cậu bé chuyển sinh vào nhà hàng xóm. Khi đứa bé chưa được một tháng tuổi đã có thể nói.
Vào Tết Nguyên đán, cha mẹ cậu bé tình cờ đi ra ngoài và để đứa trẻ nằm trong tã lót một mình ở nhà; khi ấy một người cùng thôn đến gõ cửa, nói là đến để chúc mừng năm mới. Đứa trẻ nghe thấy tiếng người bèn đáp lại: “Bác cả XX đấy phải không, cha mẹ cháu vừa mới đi ra ngoài rồi. Cửa phòng không khóa, xin mời bác vào nhà ngồi chơi.” Người khách nghe xong kinh hãi quá, lại cũng thấy buồn cười. Nhưng không lâu sau, đứa trẻ cũng qua đời. Đây có lẽ là tình huống mà Chu Hy đề cập tới.
Tuy nhiên, đạo lý trong thiên hạ là vô cùng vô tận, sự tình trong thiên hạ cũng đủ thứ đủ loại; người ta không thể chỉ căn cứ vào chỗ nghe chỗ thấy của mình mà cứng nhắc bảo vệ một loại nhận định.
(Tư liệu gốc: «Duyệt vi thảo đường bút ký» của triều Thanh, quyển 18)
Dịch từ: http://www.zhengjian.org/zj/articles/2007/8/13/47758.html
http://pureinsight.org/node/4815

Nhãn: , , , ,

Chủ Nhật, 25 tháng 9, 2011

Thu thập bằng chứng về linh hồn dưới góc nhìn khoa học

Các nhà khoa học ngày càng thu thập được nhiều bằng chứng về linh hồn và cuộc sống sau cái chết. Nhưng những bằng chứng này có thể chẳng bao giờ đủ để khẳng định linh hồn thực sự tồn tại.
Theo GS Bruce Greyson, trưởng khoa Nghiên cứu tri giác (DOPS) thuộc Đại học Hệ thống Y tế Virginia (Mỹ), trải nghiệm cận tử xảy ra ở 10% bệnh nhân ngừng tim. Khi tỉnh lại, người bệnh có thể mô tả chính xác mọi hoạt động xung quanh khi họ bất tỉnh. Điều đáng nói là trong nhiều trường hợp trải nghiệm cận tử, điện não đồ và các bằng chứng y khoa khác cho thấy, não bệnh nhân không còn dấu hiệu hoạt động khi hiện tượng này diễn ra.
Bên ngoài bộ não
Ông Pim van Lommel, chuyên gia về trải nghiệm cận tử tại Bệnh viện Rijnstate (Hà Lan) đồng tình về vấn đề này. Ông cho rằng, khi ở trạng thái cận tử, “người bệnh không những có ý thức, mà ý thức của họ còn mở rộng hơn bao giờ hết. Họ có thể suy nghĩ hết sức rõ ràng, hồi tưởng chi tiết về thời thơ ấu và cảm thấy sự liên hệ chặt chẽ với tất cả mọi người, mọi vật xung quanh. Trong khi não họ hoàn toàn không có dấu hiệu hoạt động”.
 Nếu linh hồn tồn tại sau cái chết, nó có thể được một cơ thể khác tiếp nhận.
Theo GS Peter Fenwick, Viện Tâm thần học thuộc Đại học Kings (Anh): “Nếu có thể chứng minh rằng con người vẫn tiếp nhận thông tin khi họ bất tỉnh và thoát xác thì đó là bằng chứng không thể tranh cãi về việc ý thức tồn tại tách rời bộ não”.
Có lẽ, ý tưởng về linh hồn cũng xuất phát từ hoàn cảnh này. Con người từ thời cổ xưa, khi trải qua trạng thái ảo thân, cho rằng khi đó phần tinh thần rời khỏi phần thể xác. Từ đó, họ bắt đầu tin vào sự tồn tại bên ngoài cơ thể.
Linh hồn ra đời từ đâu?
Bằng chứng khoa học đáng ngạc nhiên nhất về linh hồn xuất phát từ lĩnh vực cơ học lượng tử, hay nói cụ thể hơn là từ những nghiên cứu về các hiện tượng hạ nguyên tử tạo ra ý thức. Quan điểm truyền thống cho rằng, ý thức của chúng ta được hình thành từ mạng lưới hàng tỷ nơron. Nhưng hai giáo sư Stuart Hameroff (Đại học Arizona, Mỹ – ảnh) và Roger Penrose (Đại học Oxford, Anh) đã xây dựng một lý thuyết, theo đó, ý thức còn là sản phẩm của quá trình tính toán lượng tử diễn ra ở vi ống, một dạng cấu trúc siêu nhỏ của tế bào não.
Trước đây, nhiều người cho rằng một cơ chế như vậy không thể tồn tại, vì các máy tính lượng tử được tạo ra ban đầu chỉ có thể hoạt động ở môi trường vô cùng lạnh chứ không phải ở mức nhiệt độ cao như ở não. Tuy nhiên, những nghiên cứu trong 5 năm gần đây cho thấy, cơ học lượng tử tham gia vào khá nhiều quá trình sinh học không lạnh, trong đó có quang hợp.
Một công trình của Anirban Bandyopadhyay (Viện Khoa học Vật liệu Quốc gia Nhật Bản) còn hé mở khả năng các bit thông tin lượng tử có thể gắn kết trong môi trường nhiệt độ cao của các vi ống đơn lẻ ở tế bào.
Trạng thái gắn kết giữa các vi ống được tạo ra nhờ năng lượng sinh học. Khi quá trình cung cấp máu và oxy ngừng lại, sự gắn kết không còn, nhưng thông tin lượng tử không mất đi. Nó có thể phát tán vào vũ trụ, tồn tại và tiếp tục hoạt động dưới một hình thức nào đó. Nếu bệnh nhân được cứu sống, thông tin sẽ được não tiếp nhận trở lại. Có lẽ vì thế mà những người từng có trải nghiệm cận tử có thể nhận biết thế giới xung quanh khi họ bất tỉnh.
Nếu như giả thuyết này là đúng, thì câu hỏi đặt ra là: Quá trình lượng tử tạo thành ý thức xuất hiện từ đâu? Câu trả lời, theo GS Penrose và một số nhà khoa học, là từ vụ nổ lớn Big Bang. Theo quan điểm này, mọi dạng ý thức đều được tạo ra cùng thời điểm với vũ trụ. Và nếu linh hồn có tồn tại thì nó cũng gắn với khởi nguồn của vũ trụ.
Sự đầu thai của linh hồn
Ý tưởng của GS Penrose ám chỉ đến một cơ chế để ý thức tiếp tục tồn tại sau khi thân thể con người đã chết. Nhưng nó sẽ đi về đâu? Theo GS Hameroff: “Nếu người bệnh không được cứu sống, ý thức sẽ đi vào vũ trụ và biết đâu có thể một ngày nào đó sẽ được một cơ thể khác tiếp nhận trở lại”.
DOPS hiện đang lưu giữ khoảng 1.400 hồ sơ về các trường hợp được cho là thuộc dạng này. Phần lớn đó đều là những đứa trẻ nhớ được tiền kiếp. Các em có thể kể vanh vách trước đây mình là ai, sống ở đâu, làm gì, trông như thế nào và nhiều chi tiết khác.
Ian Stevenson, một trong những chuyên gia tâm thần học hàng đầu nước Mỹ, người sáng lập DOPS bắt đầu thu thập những câu chuyện về tiền kiếp từ năm 1960. Trong số các tài liệu ông ghi nhận được, có nhiều trường hợp một đứa trẻ được sinh ra có bớt ở đúng vị trí vết thương mà các em đã bị trong kiếp trước. Một số luôn bị ám ảnh sợ những sự vật, hiện tượng đã gây ra cái chết trong tiền kiếp.
Stevenson và các đồng nghiệp của ông chưa bao giờ khẳng định rằng hiện tượng đầu thai thực sự xảy ra. Họ chỉ cố gắng thu thập các bằng chứng về nó. Trong khoa học, những bằng chứng này có thể chẳng bao giờ đủ để khẳng định linh hồn con người tồn tại sau cái chết về thân xác và sau đó tái sinh trở lại trong một cơ thể mới. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta có thể khẳng định rằng không có linh hồn.
Theo Bee

Nhãn: , , , ,

“Thiên sứ Ác mộng”-Một bí ẩn??

 Đối với nhiều nước phương Đông, chim cú mèo là hóa thân của người chết trở về. Cho nên, khi thấy chim cú mèo đậu trên nóc nhà, các bậc già làng trưởng lão thường bảo con cháu họ chớ đuổi, đánh vì con chim đó có thể đang làm sứ mệnh chở người thân đã mất của họ về thăm gia đình. Nhưng ngược lại với chim cú mèo, sự xuất hiện của người bay cú mèo lại thường mang theo những điềm chẳng lành. Vì thế, người bay cú mèo được mệnh danh là “Thiên sứ Ác mộng”.
Qua lời kể của những người từng nhìn thấy, người bay cú mèo là loại sinh vật có ngoại hình mang nhiều đặc điểm pha tạp giữa người và chim cú mèo. Người bay cú mèo cao khoảng 1,9 mét, thể hình giống như người vượn, toàn thân bao phủ bởi lớp lông màu tro xám. Nét đặc trưng dễ nhận là người bay cú mèo không có cổ, đầu gắn liền với ngực, hai mắt to tròn và trông giống như hai viên than hồng rực, phía sau lưng là một đôi cánh nghe nói có thể giúp người bay cú mèo lao đi trong không trung với tốc độ lên tới 100 km/giờ. Tổng hợp các báo cáo về người bay cú mèo của các nước, người ta thấy rằng mỗi lần người bay cú mèo xuất hiện đều kéo theo tai họa lớn. Đồng thời, những nơi mà người bay cú mèo quá giang, tín hiệu vô tuyến, điện thoại di động bị nhiễu loạn hoặc không thể tiếp sóng.
Ngày 1/8/2007, một cây cầu trọng yếu nằm trên cao tốc liên bang bắc qua sông Mississippi, trên địa phận bang Minnesota (Mỹ) bất ngờ đổ ụp từ độ cao khoảng 20 mét so với mặt sông, làm hơn 80 người chết và bị thương cùng 8 người bị mất tích. Theo thống kê, cây cầu này mỗi ngày có khoảng 180.000 người sử dụng và bị sập vào đúng giờ cao điểm nên đã gây ra con số thương vong lớn. Sau sự kiện bi thảm này, nhiều người dân cho biết, trước khi cây cầu bị sập họ đã nhìn thấy người bay cú mèo ở trên mố cầu.
Hình vẽ người bay cú mèo của một nhân chứng ở Wisconsin (Mỹ).
Trước đó gần 10 năm, vào tháng 12/1967, cầu Bạc, nối thị trấn Point Pleasant ở bang West Virginia và Kanauga, bang Ohio (Mỹ) cũng đã gẫy lìa, làm 46 người thiệt mạng. Người ta cho rằng tai họa xảy ra là do cây cầu không chịu được sức ép quá tải của các phương tiện giao thông ngày càng dày đặc sau 39 năm đưa vào sử dụng. Nhưng cũng giống như sự kiện ngày 1/8/2007 ở Minnesota, trước khi các thanh dầm của cầu Bạc rơi xuống sông, có người vô tình đã chụp được hình của người bay cú mèo đang ôm lấy đỉnh cầu Bạc.
Vào tháng 4/1986, trước khi xảy ra vụ nổ gây ra thảm họa rò rỉ hạt nhân tại nhà máy điện nguyên tử Chernobyl ở Liên Xô cũ, có đến 12 công nhân đã nhìn thấy người bay cú mèo lượn lờ gần nhà máy điện nguyên tử Chernobyl. Sau khi sự cố xảy ra, các phi công lái máy bay trực thăng làm công tác cứu hộ cũng nhìn thấy một sinh vật dài khoảng 1,9 mét bay lượn trên quầng lửa tạo ra bởi vụ nổ ở nhà máy điện nguyên tử Chernobyl.

Một bài báo viết người bay cú mèo trên đỉnh cầu Bạc.
Ngay cả trước khi xảy ra sự kiện khủng bố kinh hoàng ngày 11/9/2001, cũng có rất nhiều người ở thành phố New York (Mỹ) nhìn thấy người bay cú mèo bay lượn ở tầm thấp. Sau đó là cảnh hai chiếc máy bay chở khách lần lượt lao thẳng vào tòa tháp đôi ở Trung tâm Thương mại Thế giới, gây ra thảm họa cho nước Mỹ với hàng nghìn người thiệt mạng.
Ngoài việc người bay cú mèo xuất hiện kéo theo tai họa, người ta còn thấy một điểm rất đáng chú ý là mỗi lần người bay cú mèo xuất hiện lại có thông tin rằng ở khu vực gần đó xuất hiện vật thể bay không xác định (UFO). Lấy sự kiện 11/9 làm ví dụ, nhiều năm qua có rất nhiều tờ báo đưa tin rằng trước khi vụ tấn công khủng bố này xảy ra có rất nhiều người đã nhìn thấy UFO xuất hiện và sau khi tòa tháp đôi của Trung tâm Thương mại Thế giới sụp xuống, người ta vẫn thấy UFO lởn vởn ở khu vực xung quanh.
Vì sự liên hệ này, có người đã mạnh dạn phỏng đoán rằng người bay cú mèo chính là một loại người ngoài hành tinh, sau khi bay đến Trái Đất bằng UFO, ra ngoài bay lượn tự do bằng đôi cánh của chính mình. Nhưng cũng có người nói rằng người bay cú mèo là một loại quái vật có thể dự đoán được tai nạn, thảm họa, do đó trước khi xảy ra tai nạn hoặc thảm họa đã tới hiện trường để cảnh báo cho con người, nhưng đáng tiếc là con người đã không hiểu. Cũng vì người bay cú mèo thường gắn với tai nạn, thảm họa, nên có người còn đã đổ lỗi cho người bay cú mèo, nói rằng họ chính là căn nguyên của tai nạn, thảm họa bởi nếu họ không đến, tai nạn, thảm họa sẽ không xảy ra.
Rốt cuộc, người bay cú mèo là quái vật hay người ngoài hành tinh, tới nay, con người vẫn chưa đưa ra được câu trả lời chính xác. Họ là thiên sứ hay ác quỷ, chúng ta cũng không có cách nào để khảo cứu. Tuy nhiên, kinh nghiệm mách bảo rằng nếu thấy người bay cú mèo xuất hiện ở đâu, bạn hãy tránh xa nơi đó, đây là cách tốt nhất để bạn bảo vệ tính mạng của mình.
Theo BTT

Nhãn: , , ,

Thứ Bảy, 24 tháng 9, 2011

Người phụ nữ có khả năng phóng ra lửa

Bà Culaghina chỉ làm công việc nội trợ gia đình, chăm sóc ba con, nhưng mỗi khi chạm tay vào da thịt ai là có thể gây bỏng cho người đó. Nhiều người cho rằng, bà khó khả năng phóng ra nhiệt cao.
Minh chứng là khi Giáo sư Y.Cođarez đề nghị Culaghina chữa giúp chứng viêm rễ thần kinh vùng thắt lưng, bà đỏ mặt lên và “đốt” cho ông một phát vào chỗ đau. Vợ ông đã cạo ra từ vết bỏng một thìa cà phê những chất muối natri và kali thông thường vẫn có trong cơ thể con người. Ngoài khả năng này, bà Culaghina còn có thể xê dịch các vật dụng như dịch chuyển chiếc bút máy, làm quay kim la bàn, làm nghiêng bàn cân…
Điều khiển mọi vật từ xa
Khoảng ba mươi năm trước, tại Liên Xô (cũ), người ta phát hiện bà Culaghina, vợ một kỹ sư đóng tàu, chỉ làm nội trợ gia đình, chăm ba con, nhưng cứ chạm tay vào da thịt ai là có thể gây bỏng cho người đó, rồi hút ra được cả bệnh tật. Bà có thể xê dịch các vật dụng như chuyển chỗ bút máy, làm quay lại kim la bàn, làm nghiêng bàn cân… Đã có rất nhiều nhà báo đến đưa tin, nhiều nhà khoa học đến nghiên cứu về chuyện lạ của Culaghina.
Chồng bà là kỹ sư Culaghin đã tự thực hiện một bộ phim tài liệu về người vợ yêu quý của mình. Khả năng kỳ lạ của bà mỗi ngày một lan xa, người từ Mỹ, Nhật Bản, Úc, Tây Âu… kéo đến để tận mục sở thị tài năng của bà ngày một nhiều. Một hãng truyền hình Nhật Bản cũng đã trả cho Liên Xô 15.000 đô la để được Nhà nước giúp họ quay một bộ phim về Culaghina.
 Bà có thể dùng năng lượng nhân điện nâng nhiều vật lên không trung mà không cần chạm vào.
Có lần khi Culaghina mở một ngăn tủ trong phòng, chiếc ngăn tủ bị hỏng rồi bung ra khiến mọi thứ văng ra tung tóe. Culaghina tỏ ra vô cùng bực tức. Cùng lúc đó, những ngọn đèn trong phòng cứ bật rồi tắt, bật rồi tắt liên tục, những đồ vật rơi dưới đất bỗng “nhảy múa” – nói chính xác thì chúng gắn chặt lấy Culaghina. Cũng kể từ đó, bà phát hiện ra một sự thật kỳ diệu: bà có khả năng điều khiển mọi vật.
Đầu những năm 1980, hiện tượng Culaghina được Giáo sư Y. Cođarez cùng Giáo sư P.Gulaez nghiên cứu. Trong buổi thí nghiệm đầu tiên, Culaghina lấy một chiếc la bàn và huơ tay lên phía trên. Một lát sau, kim la bàn động đậy, bà nói: “Đây là bước khởi động”. Để tránh có sự dẫn điện nào đó nhằm tìm ra một câu trả lời chính xác, Giáo sư P.Gulaez đã đặt lên mặt la bàn có trải vải nhựa một chiếc nắp bút bằng kim loại. Sau khi huơ tay vài lần, Culaghina lại làm cho nó chạy theo tay bà đến tận mép bàn…
Từ thực tế này, Giáo sư P.Gulaez cho rằng Culaghina đã “gồng” rất mạnh để tạo ra dòng điện mạnh tới hàng trăm kilôvôn. Vì vậy, lần hẹn sau, Y.Cođarez chuẩn bị sẵn một vôn kế điện tĩnh, rồi đấu nó với nắp bút bằng một sợi dây dẫn dài và vứt lên đèn chùm. Culaghina lại làm cho nắp bút chuyển động như lần trước, nhưng vôn kế không hề nhúc nhích.
Y.Cođarez đã bị Culaghina chinh phục, ông nói: “Tôi có cảm tưởng là để giải thích hiện tượng Culaghina, chỉ có một cách duy nhất là thừa nhận rằng con người có thể tác động lên quy luật của không gian và thời gian bằng sức mạnh của ý chí”.
Để nhiều nhà khoa học được chứng kiến, người ta đã tiến hành tiếp hàng loạt thí nghiệm tại căn phòng rộng của Viện sĩ I. Kicôin. Tại đây, Culaghina đã làm sửng sốt nhiều nhà bác học bằng cách điều khiển cho chiếc ly nhỏ chuyển động mà không cần tới bất cứ một “sợi chỉ” nào.
Chạm tay vào đâu, chỗ đó cháy xém và “hút” ra bệnh
Culaghina còn khiến mọi người đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác bằng thuật điều động từ xa. Đứng trên bục, Culaghina sẵn sàng chiều những khán giả nào muốn bà cho một “liều bỏng”.
Để có thể chạm tay vào đâu là chỗ đó cháy xém rồi “hút” ra bệnh thì việc chuẩn bị rất tốn thời gian, có khi mất hàng giờ đồng hồ. Nói cách khác, Culaghina nói rằng bà phải xóa hết các ý nghĩ khác khỏi đầu mình thì mới phát huy khả năng được. Ngoài ra, mỗi lần như vậy bà phải chịu những cơn đau nhức dọc xương sống, mắt cũng mờ đi… Giáo sư Y.Cođarez đã làm bài kiểm tra với Culaghina.
Khi Giáo sư Y.Cođarez đề nghị Culaghina chữa giúp chứng viêm rễ thần kinh vùng thắt lưng, bà đỏ mặt lên và “đốt” cho ông một phát vào chỗ đau. Vết bỏng của ông nặng đến nỗi mấy ngày sau vẫn chưa liền. Trên vết bỏng ấy, có những hạt ánh như thể được phủ bởi một lớp tinh thể nhỏ li ti. Về sau, vợ nhà khoa học này đã cạo ra ở vết bỏng đó một thìa cà phê những chất như thể muối. Kết quả xét nghiệm cho thấy, đó là loại muối natri và kali thông thường vẫn có trong cơ thể con người.
Giáo sư Y.Cođarez đã miêu tả lại cảm giác khi Culaghina huơ đôi bàn tay của mình vài lần rồi đặt lên chỗ đau đó: “Đôi bàn tay của Culaghina như viên gạch nóng áp vào lưng người tôi. Cảm giác nóng mỗi lúc thêm tăng, chỉ một lát sau chỗ Culaghina đặt tay nóng ran, y như bị bỏng. Vừa day ấn bà ấy vừa thổi ‘phù phù’, gần giống người học huýt sáo để “thu năng lượng. Do sự hiện diện của luồng hạt nhân.
Trong quá trình nghiên cứu, Giáo sư Y. Cođarez bỗng nảy ra sáng kiến, thử nghe những xung điện phát ra từ bàn tay của Culaghina xem sao. Kết quả là ông đã nghe thấy bằng tai, những âm thanh hỗn loạn khi Culaghina “gồng”. “Gồng” càng mạnh thì tiếng phát càng nhanh. Giáo sư Y. Cođarez đã nhiều lần xác minh lại xung âm mà ông tìm ra, nhưng vẫn chưa dám tin rằng tay người có thể phát ra xung âm. Hiện tượng “động từ xa” ở Culaghina là do bàn tay của bà phát ra những siêu âm, đây là một phát hiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, liên quan đến sinh học, sinh lý học, và y học.
Đôi bàn tay của Culaghina còn phát quang và sự bức xạ này được ghi nhận bằng một dụng cụ: đó là một máy khuyếch đại quang điện tử và một máy ghi chỉ số. Để ghi lại tác động đối với máy khuyếch đại quang điện tử, tay của Culaghina sẽ được giữ chặt ở bên trên, tất cả đều được che kín để đảm bảo hoàn toàn tối. Trời nóng làm tay bà vã mồ hôi nên máy vẫn không nhúc nhích. Culaghina lo lắng, bà ra sức “gồng”.
Cuối cùng con số hiện ra và bắt đầu lớn dần. Hết con số chín, nó nhẩy vọt lên gấp hàng nghìn lần của dòng tối. Mọi người đều có cảm giác là bà Culaghina đã đuối sức, nhưng bà không dừng lại được, ngay cả khi có lệnh ngừng.
Ngoài ra, Culaghina còn có thể phát ra xung lượng điện này và các xung âm kể trên là hai mặt của một quá trình.
Trong cả hai trường hợp, khi tay của bà phóng ra những hạt, sau khi mới đi được một đoạn đường ngắn thì đã đập ngay vào màng rung của micrô. Một trong hai khả năng để giải thích cho điều này là: hoặc bản thân các hạt này mang điện tích, hoặc chúng làm ion hoá không khí. Khi rơi vào mặt phẳng kính, chúng làm kính bị mờ, rơi vào bề mặt da, chúng tạo ra ở đó những tinh thể cực nhỏ, kích thích các đầu cuối thần kinh, gây xung huyết bất thường và tạo bỏng giống như cao mù tạc.
Tiếp tục tiến hành các thử nghiệm, Culaghina khiến tất cả giới chuyên môn lẫn những người xung quanh đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Culaghina còn có khả năng làm chua nước, và rõ ràng là những hạt phóng ra từ bàn tay ưa nước, vì thế nó dễ bị hấp thụ và tan vào nước.
Sự hiện diện của luồng hạt nhân này là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, để có được những luận chứng khoa học về thuật điều động từ xa, cần phải đo cơ thể, tính toán các điện trường và khẳng định được rằng hiệu điện của chúng đảm bảo làm xuất hiện các hạt đủ mạnh, để dịch chuyển các đồ vật có trọng lượng đã định trong trường lực.
Người có năng lượng nhân điện quá lớn
Năm 1982, Trung tâm thí nghiệm sinh học bằng phương pháp vô tuyến điện tử, khẳng định Culaghina có khả năng làm tăng khá lớn tính dẫn điện của không khí xung quanh lòng bàn tay mình. Bàn tay bà có thể phát ra ánh sáng và cả âm thanh. Hiện tượng huỳnh quang mạnh đến mức có thể nhìn thấy bằng mắt thường và âm thanh phát ra lớn ngang bằng tiếng động do cá heo phát ra, có thể nghe được mà không cần tăng âm. Hiện tượng Culaghina ngày nay được các nhà vật lý, hóa học, y học nghiên cứu rộng rãi và người ta nhận thấy nhiệt phát ra từ bàn tay Culaghina có tác dụng chữa bệnh đáng ngạc nhiên.
Khoa học hiện đại chỉ ra rằng, trong cơ thể con người ai cũng có nhân điện tối thiểu mới khỏe mạnh không bệnh tật, người có ít người có nhiều, năng lượng nhân điện ấy được cung cấp từ thức ăn và hơi thở. Khi năng lượng dư thừa, nó phát ra bàn tay ấm nóng, nếu dư quá hóa nhiệt làm cao áp huyết.
Nhân điện được cảm nhận bằng nhiệt, nếu bàn tay ấm nóng, mà không có bệnh tim mạch áp huyết hay táo bón, đó là người có nhiều nhân điện. Ngoài cách giải thích bằng ion, người ta còn gọi là tĩnh điện, sẽ trở thành động điện khi bàn tay di chuyển nhanh. Đó là nhân điện tự nhiên không do tập luyện, không chữa bệnh được sẽ bị hao mất điện.
Còn nhân điện do luyện tập có nhiều cách khác nhau và có nhiều trình độ khác nhau: lúc đầu dạy cho người ta vô tâm (chân không, ở thể tĩnh điện), người bệnh thiếu năng lượng thì hút vào, dư năng lượng thì nhả ra, bắt buộc phải tập thiền mới thu nạp được năng lượng nhiều. Một người thiền đúng có rất nhiều năng lượng, nhân điện chỉ là một phần trong số năng lượng ấy.
Tập khí công chuyển hóa khí âm (hơi thở, và khí của thức ăn) thành khí dương, từ khí dương tích lũy chuyển hoá thành điện âm, dư thừa nữa thì khí dương và điện âm chuyển hóa thành điện dương, là điện năng, có những cách tập mà con người dùng tay làm cháy sáng bóng đèn tức là điện sinh quang, hoặc đốt cháy tờ giấy, là điện sinh hỏa, ngoài ra điện phát sinh ra điện từ trường, có thể phát sóng từ trường, cao hơn nữa nhận được sóng thông tin tầm xa ngoài không gian vào não bộ để xử lý.
Trường hợp của Culaghina được xét vào người đặc biệt có năng lượng nhân điện rất lớn. Nguồn năng lượng điện này có thể làm cháy xém da thịt, “cạo” ra bệnh và điều khiển mọi vật dụng từ xa.
Những khả năng tổng hợp ở Culaghina đã được các nhà khoa học thời đó kiểm tra bằng vô số các phép thử ngày càng khó khăn hơn. Kết luận cuối cùng: đây là một khả năng đặc biệt có một không hai trong lịch sử hiện đại. Tuy nhiên, một số người vẫn tranh cãi xung quanh khả năng của người phụ nữ này. Ngày nay, mặc dù khoa học hiện đại rất phát triển nhưng vẫn chưa tìm ra được lời giải thích xác đáng cho hiện tượng kỳ lạ của bà Culaghina.
Theo ĐS&PL

Nhãn: , ,

Khoa học và Tôn giáo là dung hợp

Nghiên cứu của Đại học Rice tiết lộ chỉ có 15% các nhà khoa học tại những trường đại học nghiên cứu lớn cho rằng khoa học và tôn giáo luôn mâu thuẫn với nhau.

Trong lịch sử, khoa học và tôn giáo có vẻ như mãi mãi mâu thuẫn nhau, nhưng một nghiên cứu mới đây của Đại học Rice cho rằng chỉ có một số ít các nhà khoa học tại các trường đại học nghiên cứu lớn xem tôn giáo và khoa học như là hai ranh giới khác biệt.
Khi hỏi về ý nghĩa của cuộc sống, cách nhận thức hiện thực, nguồn gốc của Trái đất và việc sự sống phát triển trên đó như thế nào, nhiều người đã thấy tôn giáo và khoa học đang mâu thuẫn với nhau, và thậm chí là mâu thuẫn không thể hòa giải”, nhà xã hội học Elaine Howard Ecklund phát biểu.Tuy nhiên, phần lớn các nhà khoa học được phỏng vấn bởi Ecklund và các đồng nghiệp của bà, đã xem cả tôn giáo và khoa học như là “những con đường đúng đắn dẫn tới kiến ​​thức”, thứ có thể mang lại sự hiểu biết rộng hơn cho những câu hỏi quan trọng.
Ecklund tóm lược lại những phát hiện của mình trong bài viết “Các nhà khoa học luận bàn về ranh giới giữa Tôn giáo và Khoa học”, xuất hiện trong số báo tháng 9 của Tạp chí nghiên cứu khoa học về Tôn Giáo.
Họ đã phỏng vấn 275 nhà khoa học trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa học xã hội tại 21 trường đại học nghiên cứu hàng đầu của Mỹ.Chỉ có 15% những người được khảo sát này xem tôn giáo và khoa học là luôn luôn mâu thuẫn. 15% khác nói rằng cả hai không bao giờ xung đột, và 70% cho rằng tôn giáo và khoa học chỉ đôi khi mâu thuẫn với nhau. Khoảng một nửa số người của cuộc khảo sát ban đầu biểu lộ ra một dạng bản sắc tôn giáo nào đó, trong khi nửa còn lại thì không.
Phát hiện khác
68% các nhà khoa học được khảo sát tự nhận mình là tin vào tâm linh ở một mức độ nào đó.
Các nhà khoa học mà tự xem mình là tin vào tâm linh hay sùng đạo thì càng không cho là tôn giáo và khoa học mâu thuẫn với nhau.
Nhìn chung, trong một số trường hợp ngay cả những nhà nhà khoa học sùng đạo nhất cũng được nhận xét một cách rất tích cực bởi đồng nghiệp phi tôn giáo của họ, điều này cho thấy sự dung hợp của tôn giáo và khoa học không phải là điều quá khó chịu đối với tất cả các nhà khoa học.
Ecklund nói rằng những phát hiện trong nghiên cứu này sẽ góp phần nâng cao nhận thức của công chúng về khoa học. “Tôi nghĩ rằng sẽ hữu ích cho công chúng khi họ biết được các nhà khoa học đang thực sự nói gì về những chủ đề này hơn là việc chỉ tin theo các định kiến”, bà nói.
Ecklund là tác giả của cuốn “Khoa học vs Tôn Giáo: Các nhà khoa học thực sự nghĩ gì”, được xuất bản bởi tờ báo Oxford University Press của trường đại học Oxford vào năm ngoái.
Nghiên cứu này được ủng hộ trợ cấp từ Quỹ John Templeton và được tài trợ bổ sung từ trường Đại học Rice.
Nguồn: Beforeitsnews/tin180

Nhãn: , , ,

Tương Lai Thế Giới Qua Các Nhà Tiên Tri



Malachy O’Morgan là một tu sĩ Ái Nhĩ Lan có tài tiên tri đặc biệt về tên tuổi xuất xứ của 112 vị Giáo hoàng La Mã , từ Celestin II năm 1143 tới hiện tại. Theo nhà tu biệt tài này thì sau Giáo hoàng John Paul II hiện tại, người sẽ kế vị tên là “Gloria Olivae”, sau đó “vị Giáo hoàng cuối cùng mang danh “Petrus Romanus” là người sẽ chứng kiến cảnh binh lửa đại họa xẩy ra tại Rome nơi “đô thành trên bẩy ngọn đồi bị tàn phá” (the seven hilled city will be destroyed ).
Sinh trưởng trong một gia đình giầu có và trí thức tại vùng Armagh, từ nhỏ Malachy đã say mê tôn giáo huyền bí và theo học với một nhà tu khổ hạnh. Năm 20 tuổi đã được phong làm cha xứ Armagh, ông thực hiện nhiều cải cách trong nhà thờ và nổi danh về tài chữa bệnh bằng phép lạ. Gần tuổi 40, ông được thăng chức Tổng Giám mục nhưng 5 năm sau từ bỏ giáo quyền để trở về với đời sống bình dân. Năm 1139, là một thường dân, ông đi hành hương Vatican. Tại đây ông lại được cử làm Khâm sứ Tòa thánh cho Ái Nhĩ Lan. Năm 1148, lần cuối viếng Vatican, ông tự đoán cho mình: sẽ chết vào ngày lễ cầu hồn 2 – 11 – 1148 tại Clairvaux, một tỉnh nhỏ ở Pháp. Lời tiên tri đúng một trăm phần trăm !
Trong những ngày hành hương, Malachy “nhìn” thấy tên hiệu chư vị giáo hoàng và ghi lại vắn tắt không quá 4 chữ, ngoại trừ đối với vị cuối là Petrus Romanus. Bản tiên tri này bằng chữ La tinh, dùng ẩn ngữ, chơi chữ… chỉ tên tuổi, hương quán, phù hiệu tông phái hoặc chức vụ trước khi lên ngôi của vị Giáo hoàng.
- Thí dụ như Giáo hoàng Adrian IV lên ngôi năm 1154 được tiên đoán bằng câu “De Rure Albo” có nghĩa đen là “từ xứ Alban” (Anh quốc), hoặc nghĩa bóng là “từ một xứ trắng”, vị này đích thực là một người Anh từ tu viện St Albans, từng làm khâm sai tại các nước Bắc Âu tuyết trắng như Thụy Điển, Na Uy…
- Giáo hoàng Pius III trị vì ngắn ngủi 26 ngày vào năm 1503 được bảng tiên tri ghi là “De Parvo Homine” có nghĩa đen là “từ một người bé nhỏ”, vị này tên tục tiếng Ý Piccolomoni là một người bé nhỏ !
Mặc dù lời tiên tri viết ra từ khoảng 1139 – 1148, mãi tới năm 1595 một nhà tu kiêm sử gia Arnold Wion, dòng Benedictine, mới tìm thấy trong thư các Vatican và đã mang ra công bố tại Venice. Theo nhiều tài liệu, Malachy đã mang bản tiên tri trao cho Giáo hoàng Innocent II và ngài đã niêm phong cất đi! Thấy những câu tiên tri quá đúng, Giáo hội và các học giả vội phủ nhận giá trị và cho rằng bản tiên tri của Malachy từ thế kỷ 16 trở đi chỉ là giả tạo. Nhưng từ thế kỷ 16 đến giờ lời tiên đoán của Malachy vẫn không sai mảy may !
- Thí dụ: Giáo hoàng Benedict XV trị vì vào năm 1912 – 1922 trong thời Đệ Nhất Thế chiến được ghi danh trong bảng là “Religio de populata” có nghĩa là tôn giáo bị phí thải (religion laid waste), nghĩa bóng là tôn giáo bị đàn áp tiêu diệt ở Nga Cộng, nhân mạng bị phí hoài cả triệu vì chiến tranh, vì chết dịch…
- Giáo hoàng Clements XIV, 1769 – 1775, được ghi là “Ursus velox” có nghĩa là “con gấu nhanh”, đích danh hiệu vẽ con gấu chạy trên tấm khiên của gia tộc vị này!
- Giáo hoàng Gregory XVI, 1831 – 1846, có tên trên bảng là “De balneis Etruriae” nghĩa là từ bồn tắm ở Etruria (Ý). Vị này quả thực trước đó thuộc dòng tu ở Etruria và đã đôn đốc việc khảo cổ đào bới các bồn tắm ở địa điểm đó.
- Giáo hoàng John XXIII, 1958 – 1963, được tiên đoán là “Pastor et Nauta” tức “pastor and sailor“, trước khi lên Giáo hoàng, ngài đã làm chánh tòa Venice, một hải cảng nổi tiếng, khi họp đại hội Ecumenical Council năm 1962 biểu hiệu được chính ngài lựa chọn là một thập tự giá và một con tầu !
- Giáo hoàng kế vị, Paul VI có câu tiên tri chỉ danh “Flos Florum” tức “hoa của các loài hoa” (flower of flowers). Trên tấm khiên huy hiệu của ngài quả có 3 cánh hoa fleurs – de – lis !
- Giáo hoàng John Paul I lên chức năm 1978 và mất 34 ngày sau đã được Malachy thấy trước là “De Medietate” nghĩa là từ vầng trăng khuyết (from the half moon). Có thể hiểu theo hai nghĩa: nửa đường đứt gánh, hoặc vì tên tục của ngài là Albino Luciani với nghĩa đen là “ánh sáng trắng” (white light) tức vầng trăng khuyết.
- Lời tiên tri ý nhị nhất là về Giáo hoàng: “De Labore Solis” có nghĩa là từ lao lực mặt trời (from the toil of the sun), vị Giáo hoàng đầu tiên sau 456 năm này không phải gốc Ý mà lại là con dân xứ Krakow thuộc Ba Lan, là nơi Corpernicus đã lao lực hồi thế kỷ XVI để minh chứng trái đất xoay quanh mặt trời! Cũng có học giả cho là solis, mặt trời, còn ám chỉ tuổi trẻ, John Paul II khi lên kế vị mới có 58 tuổi!
- Vị tiếp theo sẽ mang danh “Gloria Olivea” tức vinh quang của cành olive (glory of the olive). Theo giải đoán  thì Olive chỉ dòng tu Benedictine còn được gọi là Olivetans. Dòng tu này từ thế kỷ thứ VI có St Benedict cũng tiên tri là một người trong dòng sẽ lãnh đạo Cơ Đốc giáo chống lại ác lực trong trận chiến kinh thiên động địa Armageddon trước ngày Apocalypse.
- Vị Giáo hoàng cuối trong bản tiên tri mang danh “Petrus Romanus” tức Peter of Rome là vị gánh chịu cơn binh lửa thiêu hủy thành đô trên bẩy ngọn đồi (the seven hilled city will be utterly destroyed) và đúng vào lúc “Phán quan ghê tởm sẽ phán xét người đời” (the awful Judge will judge the people).
Điều tiên tri trên rất giống lời tiên tri của Nostradamus về cảnh tượng chiến tranh xẩy ra khắp Âu châu bao trùm nước Ý, Vatican. Chính Giáo hoàng Pius X trong một thoáng huyền cảm vào năm 1909 đã tiên kiến được cảnh hãi hùng “Điều ta thấy thật kinh khủng ! không biết sẽ xẩy ra vào thời ta hay vào thời sau? vị Giáo hoàng nào sẽ phải rời Rome, bỏ Vatican, vượt trên bao xác nhà tu mà đi ?”. Bản tiên tri của Malachy có lẽ không dựa trên khoa chiêm tinh hay lý số mà là loại huyền khải, được “mở ra” trong phút giây huyền diệu và ghi lại. Bản in năm 1902 tại Paris do chính Chánh xứ Baume, Abbott Joseph Maitre bảo trợ. Đã từng là một vị Tổng giám mục và Khâm sai Tòa thánh, Malachy không phải là người ngoại đạo đặt điều phương hại tới tôn giáo của mình. Vị tu sĩ này chỉ ghi lại những gì đã được huyền khải, góp phần vào lịch sử kỳ diệu của nhân loại. Suốt non 1000 năm tiên tri không sai sót một câu, quả là thần ngôn thánh ngữ!
 Sưu tầm

Nhãn: , ,

Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2011

Sự thật về những luồng ánh sáng bí ẩn

Ánh sáng phát ra khỏi bầu khí quyển với những hình ảnh kỳ lạ và bí ẩn. Đôi khi mọi người lý giải chúng là UFO hay hoạt động của một lực lượng huyền bí nào đó. Từ quầng sáng đám mây, cột năng lượng mặt trời tới ánh sáng màu xanh bao phủ …dưới đây là những hiện tượng tự nhiên xảy ra hoặc cũng có thể là do con người ngụy tạo.


Vòng sáng xoắn ốc trên bầu trời này là do một quả tên lửa của Nga tạo ra sau khi được phóng lên không trung. Vòng xoắn ốc với ánh sáng ngoạn mục này xuất hiện vào tháng 12/2009 trên bầu trời phía bắc Na Uy. Theo Bộ Quốc phòng Nga cho biết, cuộc thử nghiệm tên lửa đạn đạo Bulava không thành làm mất kiểm soát tên lửa và tạo ra hiệu ứng xoắn ốc quay bí ẩn trên.


Hình ảnh này được chụp lại vào tháng 5/2010 tại Nødebohuse, Bắc Zealand, Đan Mạch cho thấy đây là một hiện tượng tự nhiên được gọi là “cột năng lượng mặt trời”. Những chùm ánh sáng bao phủ một diện tích rộng bất thường được tạo ra trong một không khí lạnh với các tinh thể nước đá rơi xuống từ những đám mây cao.
Các tinh thể nước đá đôi khi bằng phẳng, và sự phản xạ của không khí sẽ làm cho nó dựng thẳng lên, chứ không cắt nó sang bên.
Khi ánh sáng mặt trời phản chiếu các tinh thể, kết quả sẽ tạo ra các cột ánh sáng chiếu lên bầu trời giống như nó được xuất hiện từ mặt trời, nhưng trong thực tế nó chỉ cách xa người quan sát vài dặm.

 Ánh sáng nhấp nháy kỳ quái này xuất hiện trên bầu trời cao. Thực tế, chúng được tạo ra bởi cơn bão khi sét từ cơn bão kích thích các điện trường trong khí quyển trên cơn bão. Từ đó tạo ra ánh sáng nhấp nháy nhảy múa có hình như bóng điện, vệt, tua hoặc kết hợp cả hai.


Ánh sáng kỳ lạ phát ra màu xanh lá cây trong một buổi chiều hoàng hôn ở Thái Bình Dương này đã làm ngạc nhiên bà Nigella Hillgarth tại Viện Hải dương học ở San Diego. Màu xanh này lóe lên giống như cây đèn là một hiện tượng hiếm gặp, được tạo bởi khúc xạ ánh sáng trong bầu khí quyển.
Hình ảnh cho thấy một vầng hào quang khổng lồ trên bầu trời u ám ở Moscow, Nga. Ánh sáng bất thường này làm rộ lên tin đồn xuất hiện UFO, nhưng nó đã dễ dàng được giải thích bởi các nhà khí tượng học. Các "đám mây quầng" chỉ là một ảo ảnh quang học gây ra bởi ánh sáng mặt trời đánh một đám mây ở một góc vừa phải. Hình tròn của đám mây có thể là những gì được biết đến như lỗ đám mây.
Những đám mây này xảy ra bên trong đám mây mỏng mờ ở độ cao, thường bao gồm các tinh thể nước đá và các giọt nước có nhiệt độ dưới đóng băng nhưng vẫn còn ở dạng lỏng. Khi đám mây này bị quấy rầy bởi máy bay hoặc những cơn gió mạnh, các giọt nước có thể đóng băng ngay lập tức hoặc bay hơi, thì sau đó sẽ tạo thành lỗ.

 Cảnh quan xuất hiện vào một buổi sáng lạnh ở Park City, Utah vào giữa mùa đông. Hiện tượng này được gọi là mặt trời giả. Nó là hiện tượng quang học khí quyển gây ra bởi sự khúc xạ ánh sáng mặt trời bởi các tinh thể băng nhỏ trong những đám mây.
 Bầu trời xuất hiện ánh sáng màu xanh kỳ lạ như cực quang có cường độ cao, tỏa sáng trong đêm trăng ở phía Bắc, hình ảnh như được nhân đôi trên hồ Laberge, Yukon Territory, Canada.

Những quầng sáng mặt trời này cũng gây ra bởi sự tương tác giữa ánh sáng mặt trời với các hạt nước đá nhỏ. Khúc xạ ánh sáng mặt trời vào chúng tạo nên những vòng sáng ống kính.
Theo Đất Việt 

 Khám phá bí ẩn-Blog bí ẩn : http://www.khamphabian.com/

Nhãn: , , , , ,

Thông báo đổi tên miền

sau vài tháng sài domain http://hangvanbian.blogspot.com/ ,mình đã chính thức đổi qua http://www.khamphabian.com/ ,1 quãng thời gian không phải là ít để tìm hiểu blogger,các bạn reply cái ủng hộ nhé :)

Nhãn:

Thứ Năm, 22 tháng 9, 2011

Những hình vẽ bí ẩn được tìm thấy trên Google Earth

Qua bản đồ vệ tinh của Google, người ta đã có thể khám phá và tìm hiểu sâu các thông điệp kỳ lạ ở bán đảo Ảrập, tương tự những hình vẽ bí ẩn trên cao nguyên Nazca ở Peru.

"Công trình của người cổ đại" (theo cách gọi của người dân nơi đây) này được Trung úy Percy Maitland, thuộc lực lượng không quân hoàng gia Anh, lần đầu nhìn thấy từ trên không vào năm 1927. Tuy nhiên, theo báo New Siecntist, hình ảnh chi tiết về chúng mới được Giáo sư David Kennedy tại Đại học Western Australia phát hiện và thu thập trên Google Earth từ đầu năm nay.

Kennedy cho hay nhiều nước Đông Âu không cung cấp ảnh chụp từ trên trời và không cho phép máy bay hoạt động ở các khu vực khảo cổ, do đó Google Earth là cách duy nhất để nghiên cứu những vùng đó.

Ông đã xác định được gần 2.000 khu khảo cổ ở Saudi Arabia ngay tại văn phòng của mình chỉ bằng việc "lục lọi" ảnh vệ tinh Google Earth. Tìm hiểu kỹ hơn, ông phát hiện hơn 2.000 kite, tên gọi các khối đá có các vòng tròn và dải đuôi kéo dài hàng trăm mét. Loạt hình vẽ này khiến người ta nhớ tới hơn 1.000 tác phẩm hội họa khổng lồ hằn sâu trên vùng đất khô cằn ở nam Peru.











VNEXPRESS

Nhãn: , , , , ,